Ngân hàng Nhà nước chuẩn bị giao hạn mức tín dụng cho các ngân hàng

11:04 | 07/09/2022

446 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trong 1-2 ngày tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục giao phần hạn mức tín dụng còn lại cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Quan điểm của Ngân hàng Nhà nước là tạo điều kiện cho các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có chỉ số hoạt động tốt, lành mạnh, hệ số an toàn cao.
Ngân hàng Nhà nước chuẩn bị giao hạn mức tín dụng cho các ngân hàng
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú

Trả lời báo chí tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 8/2022 về vấn đề chia sẻ khó khăn với người dân, doanh nghiệp của các ngân hàng hàng và vấn đề hạn mức tín dụng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho hay: Trước hết nói về lãi suất, chúng ta đang không phải là nguy cơ mà đang tích cực ngăn chặn lạm phát, chống lạm phát. Theo nguyên lí như các nước đã và đang triển khai thì rõ ràng việc chống lạm phát là tăng lãi suất để hạn chế đầu tư. Đấy là nguyên lý và giải pháp của các nước phát triển nhất trên thế giới. Chúng ta cũng đang thực hiện giải pháp đó.

Đưa dẫn chứng về việc này, đại diện ngân hàng nhà nước đã đề cập đến việc Fed thay đổi nâng lãi suất liên tục, sau 4 lần nâng thì đến nay mức lãi suất đã tăng lên đến 2,25-2,5% một năm, tổng mức tăng là 2,25 điểm phần trăm. Ngân hàng châu Âu, ngân hàng có tính chất chi phối nền kinh tế lớn, cũng tăng rất cao lên 0,5%, chấm dứt 11 năm vừa qua duy trì lãi suất âm. Nhiều quốc gia khác cũng đang tăng lãi suất.

Đối với Việt Nam, lạm phát cũng là câu chuyện rất được quan tâm và Chính phủ đang chỉ đạo rất nhiều biện pháp để ngăn chặn lạm phát. Trong vài tháng gần đây, đặc biệt là tháng 7, tháng 8 vừa qua, giá xăng cũng giảm nên chỉ số lạm phát có dương nhưng không nhiều. Chính vì thế chúng ta tiếp tục duy trì được mức lạm phát 2,88%. Những yếu tố về tiền tệ cùng một số nguyên nhân khác nữa cũng là những vấn đề cần được kiểm soát chặt chẽ. Chính vì thế, việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương lúc này cũng là vấn đề cần được tính toán rất chặt chẽ.

“Từ năm 2021, kể cả năm 2022 này, đáng nhẽ các nước phải tăng lãi suất rất cao, nhưng ngân hàng Trung ương vẫn duy trì ổn định lãi suất điều hành, không thay đổi. Điều này nếu xét về mức tốc độ tương đối của đất nước thì rõ ràng Việt Nam đang giảm giá, giảm lãi suất so với các nước đang tăng nhanh”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh.

Để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tiếp cận với nguồn vốn hợp lí với giá rẻ hơn so với nguồn vốn đi vay ở nước ngoài, thì đây cũng là một trong những chính sách của Ngân hàng Nhà nước.

Thứ nữa, theo đại diện Ngân hàng Nhà nước, thời gian vừa qua, ngành Ngân hàng phải đáp ứng được nhiều nội dung, nhiều nhu cầu, nhiều bài toán đặt ra. Đó là vấn đề kiểm soát lạm phát nhưng vừa hỗ trợ việc tăng trưởng kinh tế cũng như đảm bảo khôi phục nhanh nền kinh tế, nhất là sau dịch. Hai vấn đề này đặt ra bài toán Ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục điều hành lãi suất hết sức linh hoạt và đảm bảo được mục tiêu đó. Chính vì thế, đối với ngân hàng thương mại, thời gian qua cũng có biến động tăng nhẹ, kể cả lãi suất huy động cho vay, nhưng có thể nói ở mức rất nhẹ, huy động là 0,25%, cho vay là 0,24%. Có thể nói là thấp nhất trong tất cả các nước khu vực và châu Á.

Hiện nay lãi suất cho vay bình quân chỉ khoảng 7,9-9,3%, kể cả dư nợ cũ và mới, lãi suất huy động bình quân từ 6,3-6,8% đối với kì hạn trên 1 năm. Mức lãi suất cho vay này so với mấy năm gần đây có thể nói duy trì ở mức khá ổn định. Tuy nhiên, để kiểm soát lạm phát nhưng lại đảm bảo khôi phục nhanh nền kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thì thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chỉ đạo và lời kêu gọi của Thủ tướng.

“Chúng tôi cũng sẽ cùng Hiệp hội Ngân hàng tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng thương mại tìm các biện pháp bằng nội lực của mình, nguồn lực của mình để hỗ trợ doanh nghiệp. Giống như 2 năm vừa qua chúng ta thực hiện chống dịch COVID-19 thì nguồn lực giảm lãi suất để hỗ trợ cho doanh nghiệp là 52 nghìn tỷ. Lần này chúng tôi tiếp tục kêu gọi, vận động các ngân hàng thương mại bằng việc cắt giảm chi phí trong hoạt động của mình, thứ hai là cắt giảm một phần lợi nhuận để tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp vay vốn trong thời gian tới”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nói.

Ngân hàng Nhà nước chuẩn bị giao hạn mức tín dụng cho các ngân hàng
Khách hàng giao dịch tại Agribank

Về câu chuyện lợi nhuận cao, cả chục nghìn tỷ, nhìn chung thì chúng ta có thể đánh giá là cao nhưng xét về góc độ tỉ lệ lợi nhuận trên tỉ lệ vốn của các ngân hàng thì không cao so với nhiều ngành khác.

Về hạn mức tín dụng, một trong những yêu cầu cao nhất đặt ra là tránh việc lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và ổn định kinh tế vĩ mô. Đây không chỉ là chỉ đạo của Chính phủ, Quốc hội mà còn là Nghị quyết của Trung ương bởi vì ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện quan trọng để tiếp tục ổn định kinh tế xã hội của đất nước, tiếp tục đổi mới phát triển. Chính vì thế, nhiệm vụ duy trì tỉ lệ lạm phát theo mục tiêu được đặt ra từ đầu năm là dưới 4% và chỉ tiêu tăng trưởng đặt ra là từ 6-6,5%. Ngân hàng Nhà nước cũng đặt ra mức tăng trưởng tín dụng khoảng 14% tùy điều kiện thực tế để linh hoạt trong điều hành. Để thực hiện việc này, ngay từ đầu năm, trong điều kiện nền kinh tế không có những biến động, đặc biệt là giá cả xăng dầu, một số hàng hóa ảnh hưởng đến giá cả chung trong nước như hiện nay thì 14% này có thể nói được tính toán tương đối đầy đủ. Từ đầu năm cũng đã giao chỉ tiêu hạn mức tín dụng cho các tổ chức tín dụng để triển khai. Đến hiện nay, tốc độ tăng trưởng tín dụng 9,91% là rất cao so với cùng kỳ năm ngoái và có thể nói cơ bản đã sử dụng hết hạn mức giao đầu năm.

“Phần còn lại Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục giao đầu mối cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng trong 1-2 ngày tới, với quan điểm tạo điều kiện cho các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có chỉ số hoạt động tốt, lành mạnh, hệ số an toàn cao”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú thông tin.

Hải Anh

Tin tức kinh tế ngày 6/9: Ngân hàng vẫn “ngóng” room tín dụngTin tức kinh tế ngày 6/9: Ngân hàng vẫn “ngóng” room tín dụng
Đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42Đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42
Nguồn vốn Agribank góp phần thúc đẩy cơ giới hoá, hướng tới nền nông nghiệp phát triển bền vữngNguồn vốn Agribank góp phần thúc đẩy cơ giới hoá, hướng tới nền nông nghiệp phát triển bền vững
Tín dụng “tam nông” ở Đăk Lăk phát huy hiệu quảTín dụng “tam nông” ở Đăk Lăk phát huy hiệu quả
Agribank ra mắt Ngân hàng số - Một chạm đa tiện íchAgribank ra mắt Ngân hàng số - Một chạm đa tiện ích
Thúc đẩy Đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vữngThúc đẩy Đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,500 120,500
AVPL/SJC HCM 118,500 120,500
AVPL/SJC ĐN 118,500 120,500
Nguyên liệu 9999 - HN 10,790 11,300
Nguyên liệu 999 - HN 10,780 11,290
Cập nhật: 24/05/2025 04:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.500 115.500
TPHCM - SJC 118.500 120.500
Hà Nội - PNJ 112.500 115.500
Hà Nội - SJC 118.500 120.500
Đà Nẵng - PNJ 112.500 115.500
Đà Nẵng - SJC 118.500 120.500
Miền Tây - PNJ 112.500 115.500
Miền Tây - SJC 118.500 120.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.500 115.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 120.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 120.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.500 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.500 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.000 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.890 114.390
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.180 113.680
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.960 113.460
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.530 86.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.630 67.130
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.280 47.780
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.480 104.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.500 70.000
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.080 74.580
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.510 78.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.590 43.090
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.440 37.940
Cập nhật: 24/05/2025 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,040 11,490
Trang sức 99.9 11,030 11,480
NL 99.99 10,700
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,250 11,550
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,250 11,550
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,250 11,550
Miếng SJC Thái Bình 11,850 12,050
Miếng SJC Nghệ An 11,850 12,050
Miếng SJC Hà Nội 11,850 12,050
Cập nhật: 24/05/2025 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16246 16513 17091
CAD 18267 18543 19160
CHF 30763 31140 31790
CNY 0 3546 3664
EUR 28816 29085 30115
GBP 34218 34609 35549
HKD 0 3183 3386
JPY 174 178 184
KRW 0 17 19
NZD 0 15148 15738
SGD 19644 19925 20453
THB 712 775 828
USD (1,2) 25690 0 0
USD (5,10,20) 25728 0 0
USD (50,100) 25756 25790 26135
Cập nhật: 24/05/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,775 25,775 26,135
USD(1-2-5) 24,744 - -
USD(10-20) 24,744 - -
GBP 34,438 34,532 35,453
HKD 3,255 3,265 3,364
CHF 30,914 31,010 31,863
JPY 177.13 177.45 185.41
THB 758.18 767.55 821.23
AUD 16,450 16,509 16,953
CAD 18,510 18,570 19,071
SGD 19,784 19,845 20,471
SEK - 2,654 2,747
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,870 4,004
NOK - 2,509 2,596
CNY - 3,566 3,662
RUB - - -
NZD 15,015 15,154 15,595
KRW 17.54 18.29 19.66
EUR 28,904 28,927 30,161
TWD 782.12 - 946.93
MYR 5,705.01 - 6,440.35
SAR - 6,803.1 7,161.01
KWD - 82,325 87,535
XAU - - -
Cập nhật: 24/05/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,770 25,780 26,120
EUR 28,826 28,942 30,050
GBP 34,353 34,491 35,468
HKD 3,249 3,262 3,367
CHF 30,836 30,960 31,873
JPY 176.73 177.44 184.84
AUD 16,411 16,477 17,008
SGD 19,808 19,888 20,434
THB 775 778 813
CAD 18,453 18,527 19,046
NZD 15,169 15,677
KRW 18.08 19.94
Cập nhật: 24/05/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25760 25760 26140
AUD 16428 16528 17091
CAD 18439 18539 19091
CHF 31010 31040 31913
CNY 0 3577.4 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29104 29204 29977
GBP 34536 34586 35688
HKD 0 3270 0
JPY 177.53 178.53 185.04
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15262 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19802 19932 20657
THB 0 740 0
TWD 0 850 0
XAU 11850000 11850000 12050000
XBJ 10500000 10500000 12050000
Cập nhật: 24/05/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,150
USD20 25,770 25,820 26,150
USD1 25,770 25,820 26,150
AUD 16,442 16,592 17,674
EUR 29,129 29,279 30,468
CAD 18,378 18,478 19,804
SGD 19,870 20,020 20,494
JPY 178.09 179.59 184.37
GBP 34,609 34,759 35,560
XAU 11,848,000 0 12,052,000
CNY 0 3,460 0
THB 0 777 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 24/05/2025 04:00