Lộ trình nào bảo vệ nguồn gene?

07:00 | 05/01/2014

713 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Để nâng cao nhận thức của các nhà quản lý và xã hội về tầm quan trọng của công tác bảo tồn gene, Nhà nước và các nhà khoa học cần tiến hành những đánh giá đầy đủ về mức độ suy giảm nguồn gene từ trước đến nay, bên cạnh đó là những nghiên cứu chỉ ra giá trị cụ thể thực sự của các nguồn gene quý của Việt Nam.

Năng lượng Mới số 287

Đầu tháng 12 vừa qua, Hội nghị đánh giá kết quả hoạt động khoa học và công nghệ về quỹ gene giai đoạn 2001-2013 đã diễn ra tại Hà Nội với sự góp mặt của đại diện các bộ: Khoa học & Công nghệ, Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Y tế… cùng đại diện nhiều viện nghiên cứu, các nhà khoa học của cả nước.

Theo thống kê của các ngành, hơn 10 năm qua, việc phát hiện, bảo tồn và lưu giữ mới khoảng 28 nghìn gene cây trồng nông nghiệp, 2 nghìn giống cây lâm nghiệp, 2.998 gene cây thuốc, 18 gene vật nuôi, 2.999 gene thủy sản và 21.270 chủng vi sinh vật. Và đó chưa phải là con số đáng nói, nhất là khi hiện nay mới đánh giá được 300 nguồn gene cây nông nghiệp, 451 nguồn gene cây lâm nghiệp, 200 loài gene dược liệu (đánh giá đa dạng di truyền), 6 giống vật nuôi (đánh giá đa dạng di truyền), 17 loài thủy sản và rất ít các nguồn gene vi sinh vật. Trong khi đó, đây là những “tài nguyên” quý giá không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn bảo vệ môi trường, sinh thái…

Lợn ỉ Việt Nam xuất khẩu được các nước phát triển coi là thú cưng

Chúng ta vẫn chưa quên vụ “sâm đất” - loài dược liệu quý đã tuyệt chủng nhanh chóng khi Trung Quốc thu mua ồ ạt và triệt để xóa sạch nguồn genee ở miền rừng núi Tây Bắc. Đến khi các nhà khoa học phát hiện ra thì quá muộn, không thể hồi phục được. Hay nhiều loại động vật quý hiếm đang đứng trên bờ vực bị tuyệt chủng.

Theo các nhà khoa học thì, mặc dù đã có sự nhìn nhận, quan tâm hơn về bảo tồn và phát triển quỹ gene trong thời gian qua nhưng chúng ta vẫn chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng về vấn đề này. Điều đó thể hiện ngay ở chỗ, cho đến nay vẫn chưa xây dựng được một chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gene để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Từ đó dẫn đến công tác quản lý không thể tập trung để đẩy mạnh hoạt động khoa học công nghệ về quỹ gene, góp phần bảo tồn, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên sinh học quốc gia theo hướng bền vững.

Trong công tác quản lý nguồn gene có nhiều bất cập như: nhiệm vụ bảo tồn nguồn gene được phân công cho quá nhiều bộ, ngành như Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn phụ trách bảo tồn nguồn gene thực vật phục vụ cho mục tiêu lương thực và nông nghiệp, nguồn gene vật nuôi… Bộ Y tế thì bảo tồn nguồn gene và giống cây thuốc, vi sinh vật y học trong khi Bộ Công Thương phụ trách bảo tồn nguồn gene vi sinh vật công nghiệp thực phẩm và nguồn gene cây công nghiệp…

Sự phân tán quản lý ấy đã dẫn đến nhiều hệ lụy như hạn chế về tài chính, khả năng quy hoạch tập trung bảo tồn cái gì trước cái gì sau đặc biệt là quy cách quản lý như vậy dễ dẫn đến trách nhiệm của cán bộ phụ trách không cao. Theo báo cáo của Bộ Khoa học & Công nghệ, từ những năm 2009 tới 2011, tổng kinh phí hằng năm giao cho các bộ, ngành thực hiện nhiệm vụ về quỹ gene chỉ khoảng 20 tỉ đồng. Trong khi nhu cầu vốn nghiên cứu và bảo tồn gene mỗi năm luôn cao hơn 1,5-2 lần và trong thực tế còn hơn rất nhiều. Với nguồn kinh phí còn hạn hẹp như vậy, công tác bảo tồn không thể tránh khỏi sự mất mát, suy thoái những gene quý hiếm.

Mặt khác, còn nhiều hạn chế trong công tác bảo tồn gene như vẫn chưa xác định thứ tự ưu tiên trong bảo tồn gene, mức độ xói mòn nguồn gene trong tự nhiên và trong sản xuất, thiếu các nghiên cứu cơ bản để cải tiến phương pháp lưu giữ và bảo tồn, tiến trình mô tả đánh giá và nghiên cứu khai thác sử dụng còn nhiều khiếm khuyết, thiếu nguồn nhân lực thực hiện công tác xây dựng quỹ gene.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Quân - Bộ Khoa học & Công nghệ, nguyên nhân cơ bản của những hạn chế kể trên chính là vấn đề hạn chế nhận thức của con người, đặc biệt là các nhà quản lý, về giá trị và lợi ích của công tác bảo tồn nguồn gene. Để nâng cao nhận thức của các nhà quản lý và xã hội về tầm quan trọng của công tác bảo tồn gene, Nhà nước và các nhà khoa học cần tiến hành những đánh giá đầy đủ về mức độ suy giảm nguồn gene từ trước đến nay, bên cạnh đó là những nghiên cứu chỉ ra giá trị cụ thể thực sự của các nguồn gene quý của Việt Nam.

Tùng Dương