Lao động Việt chủ yếu làm “công việc đơn giản”

09:29 | 28/03/2016

289 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việt Nam có tỷ lệ rất thấp lao động có bằng cấp, chứng chỉ, 54 triệu lao động chủ yếu làm công việc đơn giản, không cần trình độ, chuyên môn và có khoảng 30% lao động không đáp ứng yêu cầu chuyên môn.
tin nhap 20160328092659
Ảnh minh họa.

Không còn lợi thế mạnh so với Thái Lan, Philippines, Indonesia

Phát biểu tại Hội thảo về nguồn nhân lực cho phát triển ngành công nghiệp sáng 27/3, ông Nguyễn Đức Thành - Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) nhìn nhận: “Đây là thời kỳ có rất nhiều thay đổi. Năm 2015, Việt Nam tham gia AEC, lao động di chuyển sẽ dễ dàng hơn khiến thị trường cạnh tranh hơn. Trong khi đó, Việt Nam không còn lợi thế mạnh về lao động so với Thái Lan, Philippines hay Indonesia”.

Ông Nguyễn Bá Ngọc - một diễn giả từ Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thẳng thắn: “Nhận xét của các chuyên gia Nhật Bản rằng, Việt Nam tuy có nhiều loại hình đào tạo nhưng vẫn thiếu sáng tạo, thiếu năng lực giải quyết vấn đề…là rất đúng. Đó là một nguyên nhân khiến năng suất lao động của Việt Nam thua xa Nhật, chỉ bằng 1/15 Singapore”.

Theo ông Ngọc, điểm đáng lưu ý, Việt Nam có tỷ lệ rất thấp lao động có bằng cấp, chứng chỉ, 54 triệu lao động chủ yếu làm công việc đơn giản, không cần trình độ, chuyên môn và có khoảng 30% lao động không đáp ứng yêu cầu chuyên môn.

Còn theo ông Đỗ Văn Giang, Phó vụ trưởng Vụ dạy nghề chính quy, Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), Việt Nam hiện đứng thứ 3 trong ASEAN về tỷ lệ lực lượng lao động nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp nên thiếu lao động có tay nghề cao, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường.

"Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề năm 2015 đạt 38,5%, không đạt mục tiêu là 40%. Tuy nhiều ngành nghề vừa qua đạt kết quả tuyển sinh cao nhưng có nhiều nghề tuyển sinh được rất ít và chậm, thậm chí không tuyển sinh được như những nghề thuộc lĩnh vực mỏ, ngành nghề độc hại, công nghệ mạ, chế tạo khuôn đúc, một số nghề nguy hiểm như khoan nổ, mìn, rèn, đập, hoá nhuộm...", ông Giang cho biết.

"Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn: những năm tới đối mặt vấn đề già hoá dân số, cạnh tranh về nhân lực chất lượng cao tăng lên; năng suất lao động và chất lượng việc làm còn thấp; cơ cấu nhân lực lao động nhiều bất cập lớn và có nguy cơ ngày càng gia tăng bất cập; quản lý lao động lỏng lẻo...trong khi với AEC, hội nhập, di chuyển lao động trong nội khối sẽ tạo lên môi trường cạnh tranh", ông Giang cảnh báo.

Hàng loạt yếu kém trong đào tạo nghề

Ông Đỗ Văn Giang, Phó vụ trưởng Vụ dạy nghề chính quy, Tổng cục Dạy nghề cho rằng, hiện nay, việc phân bổ mạng lưới dạy nghề chưa hợp lý. Cơ chế, chính sách cho thành lâp và hoạt động của các trường ngoài công lập chưa đủ mạnh.

"Chất lượng đào tạo nghề, tuy vậy, vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Vẫn mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề đào tạo, giữa các vùng miền mà chưa khắc phục được. Đáng buồn nhất là ý thức xã hội, cha mẹ và bản thân học sinh không muốn học nghề", ông Giang nói.

Ông Giang cũng nêu lên một loạt vấn đề yếu kém trong đào tạo nghề hiện nay: cơ chế chính sách uản lý, phát triển dạy nghề chưa đồng bộ; giáo viên thiếu, yếu về chất lượng, cơ sở vật chất dạy nghề lạc hậu; chưa thiết lập được mối liên hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và cơ sở dạy nghề. Hệ thống thông tin thị trường lao động không khớp với nhu cầu của doanh nghiệp, người học và cơ sở đào tạo…

"Cung cầu lao động đang mất cân bằng: tỷ lệ thất nghiệp lớn, tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức lớn, chất lượng lao động hạn chế, chất lượng việc làm thấp..." - ông Giang nêu.

Tại hội thảo, các diễn giả cũng chỉ ra rằng, trong thời gian qua, ngay cả việc cử lao động sang nước ngoài nhằm nâng cao năng lực của lực lượng lao động cũng "có vấn đề". Như với chương trình cử tu nghiệp sinh sang Nhật Bản, tính đến năm 2015, Việt Nam có 200 nghìn thực tập sinh sang nước này để học hỏi thêm kỹ năng, kiến thức. Tuy nhiên, nhiều thực tập sinh kỹ thuật khi trở về Việt Nam lại không có cơ hội tận dụng khả năng đào tạo ở Nhật Bản, không phát huy được hiệu quả và đóng góp cho đất nước.

Ông Vũ Trường Giang, Cục Quản lý Lao động nước ngoài nói: “Đây là chương trình chuyển giao công nghệ qua quá trình làm việc tại doanh nghiệp Nhật Bản. Tuy nhiên, vấn đề là về Việt Nam có sử dụng được không? Chúng tôi cũng nhắc doanh nghiệp cho tu nghiệp sinh đi phải tạo việc làm cho họ khi về nước nhưng thực tế không hẳn như thế”.

Theo ông Giang: "Nhiều tu nghiệp sinh khi quay về được giới thiệu cho các xí nghiệp, nhà máy của Nhật Bản ở Việt Nam (hiện có 1000 doanh nghiệp) nhưng tỷ lệ tham gia cũng không nhiều. Vấn đề còn là doanh nghiệp Nhật Bản sẽ sử dụng thế nào? Sau 3 năm, lao động có trình độ tay nghề cấp 3 ở Nhật Bản nhưng có được làm đúng nghề khi về nước không? Doanh nghiệp Nhật họ cũng phải thay đổi chế độ đãi ngộ, khác đi với lao động đào tạo sơ sơ trong nước".

Phương Dung

Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,400 ▼100K 89,500
AVPL/SJC HCM 87,400 ▼100K 89,500 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 87,400 ▼100K 89,500
Nguyên liệu 9999 - HN 74,950 ▼250K 75,750 ▼250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,850 ▼250K 75,650 ▼250K
AVPL/SJC Cần Thơ 87,400 ▼100K 89,500
Cập nhật: 17/05/2024 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 75.100 ▼250K 77.000 ▼150K
TPHCM - SJC 87.500 89.900 ▼100K
Hà Nội - PNJ 75.100 ▼250K 77.000 ▼150K
Hà Nội - SJC 87.500 89.900 ▼100K
Đà Nẵng - PNJ 75.100 ▼250K 77.000 ▼150K
Đà Nẵng - SJC 87.500 89.900 ▼100K
Miền Tây - PNJ 75.100 ▼250K 77.000 ▼150K
Miền Tây - SJC 87.700 90.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 75.100 ▼250K 77.000 ▼150K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.500 89.900 ▼100K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 75.100 ▼250K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.500 89.900 ▼100K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 75.100 ▼250K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 75.000 ▼300K 75.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.600 ▼230K 57.000 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 43.090 ▼180K 44.490 ▼180K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.280 ▼130K 31.680 ▼130K
Cập nhật: 17/05/2024 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,470 ▼45K 7,645 ▼55K
Trang sức 99.9 7,460 ▼45K 7,635 ▼55K
NL 99.99 7,475 ▼45K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,470 ▼45K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,535 ▼45K 7,675 ▼55K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,535 ▼45K 7,675 ▼55K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,535 ▼45K 7,675 ▼55K
Miếng SJC Thái Bình 8,750 9,000
Miếng SJC Nghệ An 8,750 9,000
Miếng SJC Hà Nội 8,750 9,000
Cập nhật: 17/05/2024 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 87,500 90,000
SJC 5c 87,500 90,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 87,500 90,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 75,250 ▼100K 76,850 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 75,250 ▼100K 76,950 ▼200K
Nữ Trang 99.99% 75,050 ▼200K 76,050 ▼200K
Nữ Trang 99% 73,297 ▼198K 75,297 ▼198K
Nữ Trang 68% 49,369 ▼136K 51,869 ▼136K
Nữ Trang 41.7% 29,366 ▼83K 31,866 ▼83K
Cập nhật: 17/05/2024 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,542.79 16,709.89 17,245.90
CAD 18,212.53 18,396.50 18,986.61
CHF 27,337.87 27,614.01 28,499.80
CNY 3,452.70 3,487.58 3,599.99
DKK - 3,638.16 3,777.47
EUR 26,943.10 27,215.25 28,420.33
GBP 31,406.75 31,723.99 32,741.62
HKD 3,179.47 3,211.58 3,314.60
INR - 304.36 316.53
JPY 158.48 160.08 167.74
KRW 16.23 18.04 19.68
KWD - 82,668.54 85,973.23
MYR - 5,379.96 5,497.28
NOK - 2,331.49 2,430.47
RUB - 266.28 294.77
SAR - 6,767.26 7,037.78
SEK - 2,325.99 2,424.74
SGD 18,433.15 18,619.34 19,216.61
THB 621.40 690.45 716.88
USD 25,220.00 25,250.00 25,450.00
Cập nhật: 17/05/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,725 16,825 17,275
CAD 18,428 18,528 19,078
CHF 27,596 27,701 28,501
CNY - 3,485 3,595
DKK - 3,654 3,784
EUR #27,174 27,209 28,469
GBP 31,824 31,874 32,834
HKD 3,187 3,202 3,337
JPY 160.04 160.04 167.99
KRW 16.98 17.78 20.58
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,335 2,415
NZD 15,309 15,359 15,876
SEK - 2,322 2,432
SGD 18,438 18,538 19,268
THB 648.23 692.57 716.23
USD #25,250 25,250 25,450
Cập nhật: 17/05/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,150.00 25,450.00
EUR 27,087.00 27,196.00 28,407.00
GBP 31,525.00 31,715.00 32,705.00
HKD 3,195.00 3,208.00 3,314.00
CHF 27,506.00 27,616.00 28,486.00
JPY 159.51 160.15 167.51
AUD 16,660.00 16,727.00 17,239.00
SGD 18,533.00 18,607.00 19,168.00
THB 683.00 686.00 715.00
CAD 18,327.00 18,401.00 18,952.00
NZD 15,304.00 15,817.00
KRW 17.96 19.65
Cập nhật: 17/05/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25219 25219 25450
AUD 16721 16771 17284
CAD 18456 18506 18962
CHF 27722 27772 28325
CNY 0 3486.6 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27342 27392 28094
GBP 31940 31990 32643
HKD 0 3250 0
JPY 161.21 161.71 166.26
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0393 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15332 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18686 18736 19293
THB 0 662 0
TWD 0 780 0
XAU 8750000 8750000 8980000
XBJ 7000000 7000000 7550000
Cập nhật: 17/05/2024 17:00