FDI và tư duy nông nghiệp công nghệ cao

15:09 | 30/11/2020

263 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đến năm 2019, nông nghiệp chiếm tới 40% lực lượng lao động, nhưng chỉ đóng góp khoảng 14% trong GDP (số liệu 2019), là một trong những khó khăn về hiệu suất của sự phát triển kinh tế Việt Nam. Vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao được coi là giải pháp, tuy nhiên tư duy nông nghiệp chưa bắt kịp đang là rào cản lớn.

Nông nghiệp công nghệ cao là một thuật ngữ rất rộng, bao gồm từ nông nghiệp chính xác (tưới tiêu, phân bón), đảm bảo tiêu chuẩn đầu ra (thực phẩm sạch, đẹp, tiêu chuẩn VietGap), tự động hoá trong nuôi trồng, công nghệ biến đổi gen giúp giảm sâu bệnh và tăng năng suất, kết hợp trong nội bộ nông nghiệp hoặc lĩnh vực khác (như nhà kính kết hợp sản xuất điện mặt trời).

Nông nghiệp công nghệ cao được kỳ vọng sẽ giải quyết được các vấn đề: (1) Tiết kiệm tài nguyên (đất, nước, nhân công), (2) Đầu ra chất lượng (ngon, sạch, độc lạ), (3) Sản lượng đầu ra (nạn đói, khủng hoảng lương thực).

Các nước phát triển có lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp rất thấp, tuy nhiên đóng góp vào GDP lại rất ấn tượng - Mỹ: 0.7% lực lượng lao động và chiếm 1% GDP. Mấu chốt ở chỗ nông dân Mỹ làm nông nghiệp như các nhà khoa học làm nghiên cứu - chia lô thử nghiệm giống, thử nghiệm phân bón, lên công thức chính xác cho tưới tiêu, áp dụng máy móc hiện đại - hệ thống tưới tiêu, máy bay bón phân…

Năm 2020, Việt Nam được các mặt báo lớn của thế giới gọi là điều thần kỳ, khi quản lý dịch bệnh rất tốt (dưới 01 người tử vong trên một triệu người) mà vẫn giữ được GDP tăng trưởng khả quan (3%). Trước đó, hai năm liên tiếp 2018 và 2019, Việt Nam đều đạt mức tăng trưởng GDP hơn 7%. Theo đà phát triển này, nước ta được kỳ vọng sẽ có một giai đoạn phát triển bùng nổ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan, và Trung Quốc.

Góp phần nhiều trong đà phát triển này là nhờ nguồn vốn FDI, mà chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan, và Trung Quốc; tác giả Ruchir Sharma của tờ New York Times nhận xét “những nền kinh tế thần kỳ cũ đang góp sức để viết tiếp một câu chuyện thần kỳ mới”.

FDI không chỉ là nguồn vốn, quan trọng hơn tiền là công nghệ, nhân lực, chuyển giao chuyên môn, đối tác xuất khẩu, và thay đổi tư duy xưa cũ của người dân Việt. Nhờ FDI trong lĩnh vực công nghiệp, từ một nước thuộc thế giới thứ ba, Việt Nam hiện đã tiến gần hơn tới các nước phát triển trong một số mảng sản xuất và công nghệ thông tin.

Điều tương tự được kỳ vọng sẽ xảy ra trong lĩnh vực nông nghiệp.

Tuy nhiên, theo theo số liệu cuối năm 2018, dòng vốn FDI vào khu vực nông nghiệp ở nước ta chỉ chiếm 1,02% tổng vốn FDI, và cũng chỉ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế biến gỗ và lâm sản, chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc - các dự án nông nghiệp công nghệ cao vẫn rất khan khiếm, mặc dù ưu đãi cho FDI vào lĩnh vực nông nghiệp không phải là nhỏ - thuế và quỹ đất, cũng như tiềm năng nông nghiệp nước ta cũng không cần phải bàn, một ví dụ là giống gạo ST25 được công nhận là “gạo ngon nhất thế giới năm 2019” tại Hội nghị Thương mại gạo thế giới lần thứ 11 tổ chức tại Philippines.

Một trong những nút thắt của FDI vào nông nghiệp công nghệ cao Việt Nam là tư duy nông nghiệp. Nếu như người công nhân đã quen với quy chuẩn khắt khe trong các nhà máy, thì người nông dân Việt vẫn còn rất cảm tính và dễ dãi trong việc nuôi trồng.

Chia sẻ của bà Nguyễn Thị Trà My, chủ tịch Panfarm: “Khi chúng tôi đưa kỹ thuật của người Nhật vào việc trồng hoa, dặn bạn trông nhà kính rằng sau đêm nay thì nâng cái lưới lên để cây mọc thẳng, bạn trả lời lại rằng là không cần thiết, xưa giờ vẫn để vậy có sao đâu. Hai ngày sau bạn mới nâng, lúc này thì cái đoạn mới mọc đã bị cong rồi. Chỉ vì sơ suất rất nhỏ này, chúng tôi đã không thể xuất khẩu được cả lô hàng.”

Mô hình chủ yếu của các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay là “nuôi trồng theo hợp đồng” (contract farming). Chuyển giao quy trình và tiêu chuẩn cho bà con nông dân để sản xuất nông sản - tận dụng được nguồn lực hiện có. Tuy nhiên cái khó là bà con nông dân vẫn chưa có tư duy của một nền nông nghiệp công nghệ cao.

Nhìn lại trong lĩnh vực công nghiệp, nếu như những FDI đầu tiên vào Việt Nam ngày đó như Samsung đã bỏ rất nhiều công sức giúp đào tạo một thế hệ công nhân đạt chuẩn quốc tế. Thì trong lĩnh vực nông nghiệp, câu hỏi liệu sẽ có FDI nào quyết tâm đầu tư vào Việt Nam như vậy vẫn còn bỏ ngỏ, vì rõ ràng giá trị của nông nghiệp không thể nào bằng công nghiệp được.

Trách nhiệm thay đổi tư duy nông nghiệp, vì vậy, có lẽ sẽ phải được đặt lên vai những doanh nghiệp trong nước trước. Rồi FDI mới thấy tiềm năng mà gia nhập theo sau, gỡ nút thắt cho nền kinh tế Việt Nam.

Tin vui là xu hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao đang thu hút nhiều doanh nghiệp trẻ ở Việt Nam, từ tiêu chuẩn Vietgap ngày càng được lan rộng, tới áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, nhà kính nuôi trồng chính xác. Những thương hiệu nông sản Việt cũng bắt đầu được chú ý hơn trên trường quốc tế, như nước mía Việt hay gạo Việt.

Điều quan trọng là giữ được xu hướng này, cùng với việc thúc đẩy và hỗ trợ phát triển nhanh hơn nữa, người nông dân Việt mới có thể bắt kịp với thế giới.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Loạt dự án FDI tạo bước ngoặt cho nền kinh tế Việt Nam trong tương laiLoạt dự án FDI tạo bước ngoặt cho nền kinh tế Việt Nam trong tương lai
Đầu tư phương Tây vào Việt Nam chỉ bằng 1/3 vốn của Trung QuốcĐầu tư phương Tây vào Việt Nam chỉ bằng 1/3 vốn của Trung Quốc
Cần giảm sự phụ thuộc vào doanh nghiệp FDICần giảm sự phụ thuộc vào doanh nghiệp FDI

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 27/04/2024 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,235 16,255 16,855
CAD 18,226 18,236 18,936
CHF 27,210 27,230 28,180
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,244 26,454 27,744
GBP 31,087 31,097 32,267
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.41 156.56 166.11
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,217 2,337
NZD 14,797 14,807 15,387
SEK - 2,241 2,376
SGD 18,043 18,053 18,853
THB 631.87 671.87 699.87
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 27/04/2024 01:02