EVN nói về kết luận của Thanh tra Chính phủ

08:00 | 09/10/2013

601 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã có văn bản chính thức giải trình về một số nội dung trong Kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ về việc chấp hành quy định của pháp luật trong quản lý sử dụng vốn, tài sản tại Tập đoàn.

Nhiều dự án lưới điện của EVN nằm ở những khu vực gần như biệt lập.

 

Theo đó, EVN khẳng định các hoạt động đầu tư ngoài Công ty mẹ là theo cơ chế, quy định của Nhà nước, vốn đầu tư khu chung cư, nhà công vụ phục vụ, vận hành, công trình thể thao... là vốn đầu tư từ khấu hao, lợi nhuận sau thuế hoặc vay ngân hàng và được hạch toán riêng không đưa vào giá điện...

Cụ thể:

Về việc đầu tư ngoài Công ty mẹ EVN, EVN khẳng định thực chất đây là việc Tập đoàn dùng vốn của mình đầu tư vào các Công ty con, công ty liên kết để thực hiện nhiệm vụ sản xuất, truyền tải, phân phối điện theo cơ chế, quy định của Nhà nước.

EVN cho biết, trước đây khi còn là Tổng công ty Điện lực Việt Nam thì các đơn vị này đều thuộc Tổng công ty, tuy nhiên khi chuyển sang mô hình Tập đoàn thì có sự thay đổi: Công ty mẹ là một pháp nhân; các Công ty con, công ty liên kết cũng là pháp nhân như Công ty mẹ. Mối quan hệ giữa Công ty mẹ và công ty con, công ty liên kết thông qua hình thức Công ty mẹ đầu tư vốn vào Công ty con, công ty liên kết (những đơn vị này trước đây đều thuộc EVN và đều thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện).

Như vậy ở đây chỉ là sự thay đổi mô hình hoạt động còn bản chất các khoản đầu tư của EVN vào các công ty con, công ty liên kết sản xuất kinh doanh điện, không phải là khoản đầu tư mới ngoài ngành sản xuất kinh doanh điện. Trong 121.790 tỉ đồng đầu tư ngoài Công ty mẹ thì: Công ty mẹ đầu tư vào Công ty con, công ty liên kết thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện 49.634 tỉ đồng (gồm các Tổng công ty Phát điện, Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia, các Tổng công ty Điện lực...).

Ngoài ra, Công ty mẹ cũng cho các công ty con vay lại 70.049 tỉ đồng (gồm các Tổng công ty Phát điện, Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia, các Tổng công ty Điện lực...); Công ty mẹ đầu tư ngoài ngành có 2.107 tỉ đồng (chiếm tỷ lệ 2,7% trên vốn điều lệ).

Đối với khoản cho vay lại, EVN cho biết thực chất đây là khoản vay mà trước đây do EVN vay của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước (chủ yếu là vay của nước ngoài) để đầu tư các công trình điện của EVN mà EVN phải trực tiếp nhận nợ. Do quá trình đổi mới doanh nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ, một số đơn vị thuộc EVN tách ra thành các đơn vị thành viên của EVN như: Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia, các Tổng công ty Phát điện 1, 2, 3…

Tuy nhiên, do các tổ chức tín dụng không đồng ý việc chuyển đổi chủ thể vay mà vẫn yêu cầu EVN chịu trách nhiệm chủ thể vay, do đó EVN buộc phải chuyển các khoản nợ vay (cho vay lại) về cho các đơn vị trực tiếp sử dụng quản lý các khoản vốn vay đã đầu tư cho các dự án, công trình điện nhưng Công ty mẹ - EVN vẫn phải nhận nợ với các tổ chức tín dụng.

“Thực chất, việc cho vay lại này là để thu hồi vốn từ các đơn vị thành viên đã sử dụng nguồn vốn vay để đầu tư các công trình điện về EVN để có nguồn trả nợ chứ không phải là khoản đầu tư ra ngoài EVN” - đại diện EVN khẳng định.

EVN: Không có chuyện hạch toán vốn xây dựng khu chung cư, nhà công vụ vào giá điện.

Đối với khoản đầu tư ngoài ngành 2.107 tỉ đồng, EVN cho biết, do trước đây khi thành lập Tập đoàn Điện lực Việt Nam theo Điều lệ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Tập đoàn hoạt động đa ngành đa nghề, trong đó có lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, chứng khoán, bất động sản. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định 854/QĐ-TTg ngày 10/7/2012, EVN đã có văn bản báo cáo Bộ Công Thương thực hiện thoái vốn ngoài ngành số tiền 2.107 tỉ đồng và hiện EVN đang tích cực triển khai để cố gắng đến năm 2015 hoàn thành việc thoái vốn này.

Riêng với việc xây dựng các nhà công vụ, EVN nhấn mạnh: Do đặc thù các nhà máy điện có công suất lớn hầu hết được xây dựng ở cách xa khu dân cư, xa thành phố thị xã, các nhà máy điện đều vận hành liên tục ba ca bốn kíp, khi xảy ra sự cố cần phải huy động ngay một lực lượng cán bộ công nhân nhất định để giải quyết khắc phục sự cố, sửa chữa kịp thời ngay để phát điện, khi thay ca đòi hỏi theo nhóm cùng một lúc không có người đi trước người đi sau (khác với đi ca của một số khu ngành công nghiệp khác).

Mặt khác lực lượng cán bộ, công nhân tuyển dụng lần đầu đều là lực lượng trẻ ở khắp các tỉnh thành trong cả nước, không có gia đình ở gần, mặt khác để thu hút những cán bộ công nhân, kỹ sư có trình độ cao về làm việc tại các nhà máy trong các điều kiện khó khăn; nên các nhà máy điện đều phải có khu Quản lý vận hành sửa chữa, trong đó có hạ tầng và nhà ở cho cán bộ công nhân, những nhà ở này thực chất là nhà ở công vụ. Khi cán bộ công nhân không làm việc ở nhà máy phải trả lại nhà và ra khỏi khu Quản lý vận hành/nhà công vụ này.

Đại diện của EVN cho biết, các nhà ở biệt thự đơn lập, song lập được xây dựng cho các chuyên gia sinh sống trong quá trình thi công nhà máy, sau khi nhà máy xây dựng xong các chuyên gia không ở nữa thì chuyển thành nhà khách cho khách đến làm việc hoặc nhà ở phục vụ quản lý vận hành.

“Hiện nay, trong các Nghị định về Quản lý đầu tư của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn của các Bộ ngành không nêu cụ thể có danh mục Khu quản lý vận hành sửa chữa, nhà công vụ, nhưng với các nội dung nêu trên, việc xây dựng khu quản lý vận hành, sửa chữa, nhà công vụ cho cán bộ công nhân của các nhà máy điện là rất cần thiết, phù hợp với điều kiện thực tế.

Chính vì vậy khi lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật các nhà máy điện đơn vị tư vấn đã xem xét sự cần thiết và nhu cầu thực tế trên cơ sở quy mô của cụm nhà máy đã tính toán và đưa khu Quản lý vận hành, sửa chữa là một hạng mục công trình của dự án, chủ đầu tư đã báo cáo trình cấp có thẩm quyền thẩm tra và phê duyệt dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật - TDT trong đó có hạng mục khu quản lý vận hành nêu trên. Các khu quản lý vận hành sửa chữa của năm trung tâm nhà máy nhiệt điện nêu trên đều đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, cấp đất cho phép xây dựng theo các quy định hiện hành” - đại diện của EVN cho biết thêm.

Đáng chú ý, theo thông tin được EVN khẳng định thì nguồn vốn đầu tư khu chung cư, nhà công vụ phục vụ vận hành, công trình thể thao: EVN sử dụng nguồn vốn đầu tư từ khấu hao, lợi nhuận sau thuế hoặc vay ngân hàng và hạch toán riêng không đưa vào giá thành điện. Các đơn vị thực hiện thu tiền thuê nhà và các dịch vụ theo quy định để hoàn vốn đầu tư, không hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện.

Xung quanh thông tin cho rằng Công ty mẹ EVN hướng dẫn hạch toán chuyển nguồn vốn không đúng tại 11 dự án đã hoàn thành đang hoạt động làm tăng chi phí sản xuất điện trong năm 2011 tại 11 dự án nêu trên số tiền 223.909.749.578 đồng, Tập đoàn cho biết: Do nhu cầu vốn đầu tư các công trình điện của EVN rất lớn, mỗi năm EVN đầu tư hơn 60.000 tỉ đồng, năm 2013 kế hoạch đầu tư của EVN cho các công trình điện là 106.600 tỉ đồng, trong khi đó khả năng thu xếp vốn không đáp ứng được nhu cầu đầu tư nên lúc nào EVN cũng thiếu vốn đầu tư trầm trọng.

Nguồn vốn khấu hao cơ bản không đủ để trả nợ gốc và lãi vay. Vì vậy việc huy động thu xếp vốn cho các công trình điện chủ yếu từ các nguồn vốn vay.

Phân tích cụ thể hơn, đại diện EVN cho biết: Trong quá trình phát hành trái phiếu để huy động vốn cho các công trình, do các thủ tục để phát hành trái phiếu chậm nên không kịp với tiến độ giải ngân công trình điện, nhưng để đảm bảo tiến độ công trình phục vụ điện cho phát triển kinh tế của đất nước nên khi có khối lượng phải thanh toán EVN đã phải ứng trước vốn sản xuất để thanh toán cho các nhà thầu, sau khi việc phát hành trái phiếu hoàn thành lúc đó EVN thực hiện việc hoàn trả lại số vốn sản xuất trước đây đã ứng. Cụ thể:

Năm 2010 và năm 2011, EVN có hướng dẫn 8 đơn vị hạch toán chuyển nguồn vốn của 11 dự án đã hoàn thành (từ nguồn vốn sản xuất EVN đã tạm ứng sang nguồn vốn trái phiếu doanh nghiệp) với tổng số tiền là 1.619.340.753.604 đồng (tại 02 thời điểm là ngày 01/9/2010 và ngày 21/10/2010) là thực chất hoàn trả vốn sản xuất mà trước đây EVN đã ứng.

Chính vì vậy, việc điều chuyển nguồn vốn các dự án đã hoàn thành nên phần lãi trái phiếu số tiền 223.909.749.578 đồng được hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện ngay trong năm tài chính thay vì hạch toán vào chi phí đầu tư xây dựng cơ bản của các công trình điện (tăng vốn đầu tư của dự án và cũng được hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện thông qua khấu hao tài sản cố định), về tổng thể việc hạch toán nêu trên không làm tăng chi phí sản xuất điện.

Liên quan đến việc giao chỉ tiêu kinh doanh lỗ năm 2011 cho các Tổng công ty, EVN cho biết: Do năm 2010, 2011 EVN gặp rất nhiều khó khăn như nhu cầu phụ tải tăng cao trong khi nắng hạn thiếu nước, ngành điện phải huy động từ các nguồn khác nên 2 năm liên tiếp EVN lỗ tổng cộng 12.000 tỉ đồng. Theo quy trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, hằng năm EVN giao các chỉ tiêu cho các Tổng công ty, các đơn vị trong Tập đoàn. Năm 2011 do khó khăn nên EVN đã giao chỉ tiêu lỗ cho các đơn vị để các đơn vị phấn đấu giảm lỗ so với lỗ kế hoạch.

“Việc hạch toán giá thành của EVN luôn tuân thủ các quy định của Nhà nước và đã được các tổ chức thanh tra, kiểm toán xác nhận” - đại diện EVN nhấn mạnh.

Nhóm phóng viên PetroTimes