Cùng với FDI, thế và lực của nền kinh tế đã sang trang

07:00 | 03/09/2018

303 lượt xem
|
(PetroTimes) - “Chính phủ Việt Nam chủ trương không còn thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi giá. Thay vào đó sẽ đẩy mạnh thu hút đầu tư theo hướng chọn lọc hơn. Đó cần là những doanh nghiệp có công nghệ tốt, có nền quản trị hiện đại, thân thiện với môi trường, sẵn sàng kết nối cùng doanh nghiệp trong nước và phù hợp quá trình tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam”.
cung voi fdi the va luc cua nen kinh te da sang trang
Ảnh minh hoạ

Đó là phát biểu của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ tại Diễn đàn M&A Việt Nam ngày 8/8/2018 tại TPHCM.

Bước nhảy vọt của nền kinh tế

Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời vào cuối năm 1987, thời đại mới cùng sự gia nhập của dòng vốn FDI đã mang tới cho kinh tế Việt Nam bước tiến dài. Sau 30 năm kể từ lúc đón nhận dự án FDI đầu tiên, Việt Nam đã chuyển từ một quốc gia có GDP đầu người chỉ 100 USD/năm (1989) trở thành nơi có GDP bình quân 2.400 USD/năm, và chính thức là đối tác chiến lược quan trọng của nhiều nền kinh tế lớn, có tiếng nói và vị thế nhất định trên trường thế giới.

Theo ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Phát triển Đại học Fulbright Việt Nam, tỷ lệ giải ngân của FDI tại Việt Nam hiện đạt mức 7-8% GDP - con số gần như đã cao nhất thế giới!

Còn đánh giá của PGS.TS Trần Hoàng Ngân - thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế Thủ tướng - lại cho thấy nhờ có thêm dòng FDI mà Việt Nam đã đạt tới mức tăng trưởng bình quân khoảng 6,6%/năm trong suốt 30 năm qua. Trong đó, đóng góp của khu vực FDI chiếm khoảng 20% GDP. Điều quan trọng hơn cả là dòng vốn này đã kéo theo sự nhập cuộc tích cực của các thành phần kinh tế khác trong nước.

Hiện FDI đang đóng góp 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu và hơn 50% sản lượng công nghiệp chế biến chế tạo. Xuất khẩu lớn đã giúp cán cân vãng lai Việt Nam cải thiện đáng kể. Các nhà điều hành chính sách vì vậy đã thuận lợi hơn rất nhiều khi điều tiết các yếu tố vĩ mô như lạm phát, tỷ giá, lãi suất…

Chuyên gia Kinh tế Phạm chi Lan cũng tin rằng FDI đã giúp Việt Nam trở thành cứ điểm sản xuất hàng đầu của thế giới về dệt may, da giày, đồ gỗ; kết nối kinh tế Việt Nam với thị trường các nước, khiến thế và lực Việt Nam “nặng ký” hơn khi hội nhập với các cộng đồng kinh tế quốc tế như ASEAN, WTO, hay các FTAs.

Bên cạnh những ảnh hưởng có thể định lượng, FDI còn tạo ra lan tỏa vô hình tới toàn bộ gương mặt văn minh và đô thị Việt Nam, gián tiếp nâng tầm mức sống và trình độ dân trí.

Thực vậy, tại TPHCM, đầu tàu kinh tế của cả nước, nếu như năm 1992, khối doanh nghiệp FDI chỉ đóng góp hơn 15 tỷ đồng vào thu ngân sách của Thành phố với tỷ lệ khiêm tốn 0,6% thì đến năm 2016, con số này đã lên 16,3%.

Đối mặt với nghịch lý

Dù vậy, bức tranh của kinh tế Việt Nam khi “pha” thêm “màu sắc” của FDI không phải lúc nào cũng phủ đầy gam màu tươi sáng. Theo GS Andreas Hauskrecht từ Đại học Indiana (Mỹ), thành viên nhóm Sáng kiến Việt Nam, dù không thể phủ nhận vai trò của FDI trong những thành tựu kinh tế của Việt Nam đến nay nhưng “ngay lúc này có thể thấy, một cách tương đối thì khu vực FDI chỉ dịch chuyển rất ít hiểu biết và công nghệ của họ cho khối doanh nghiệp trong nước. Vì vậy tác động lên nền kinh tế Việt Nam bị hạn chế đi rất nhiều”.

Thế nên vẫn còn đó nghịch lý kiểu như: Có những nhà máy FDI nắm giữ công nghệ thế hệ tiên tiến nhất nhưng tại Việt Nam, nhà máy ấy chỉ dành để đảm đương các khâu lắp ráp đơn giản với giá trị gia tăng thấp. Do đó giá trị của sản phẩm làm ra nằm hầu hết ở các linh kiện, cấu kiện đầu vào được nhập khẩu. Và chỉ là lắp ráp giản đơn nên trình độ nhân lực cũng chỉ được đòi hỏi ở bậc phổ thông trung học. Vì vậy, dù trải qua nhiều năm làm việc, đội ngũ những người lao động tại đây hầu như không tích lũy thêm được kiến thức chuyên môn nào về công nghệ…

Lẽ tất nhiên trong những ngày đầu mở cửa, chuyện một nền kinh tế bị tụt hậu, đang khát vốn đầu tư, mới thoát khỏi siêu lạm phát và bắt đầu làm quen với cơ chế thị trường lại đòi hỏi dòng FDI với hàm lượng công nghệ cao và sức lan tỏa lớn gần như là điều phi thực tế. Dù tỷ lệ nội địa hóa ở nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã tăng mạnh trong các năm gần đây (VD: SamSung đã tăng tỷ lệ nội địa hóa từ mức 34% năm 2014 lên mức 51% vào năm 2017) nhưng một số chuyên gia kinh tế cho rằng trên bình diện chung, tính kết nối và chuyển giao công nghệ của khối doanh nghiệp nước ngoài cho các thành phần kinh tế khác đến nay vẫn còn hạn chế, tương tự như nhiều thập kỷ trước.

Nhiều doanh nghiệp nước ngoài khi vào Việt Nam đã có sẵn hệ sinh thái cho riêng mình hoặc cũng chỉ muốn gây dựng chuỗi giá trị với các ưu tiên cho doanh nghiệp có cùng nơi “chôn rau cắt rốn”.

Ngoài ra, cũng có nhiều doanh nghiệp nội địa tuy đáp ứng được tiêu chuẩn gia nhập chuỗi giá trị rất khe khắt của FDI nhưng trước yêu cầu phải thay đổi liên tục về công nghệ, kiểu dáng thương mại của sản phẩm cũng khó lòng trụ vững. Ở các doanh nghiệp liên doanh, không phải lúc nào các bên cũng “cơm lành canh ngọt”, có những trường hợp nhiều năm kinh doanh bết bát khiến cho phía Việt Nam đành chọn con đường thoái vốn để “cắt lỗ”.

Nắn chỉnh dòng FDI

Vậy làm sao để hóa giải các nghịch lý trên?

Tại Diễn đàn M&A thường niên hồi tháng 8 vừa qua, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã thẳng thắn nêu rõ quan điểm “nắn chỉnh” dòng FDI trước đông đảo giới đầu tư nước ngoài rằng “Chính phủ Việt Nam chủ trương không còn thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi giá. Thay vào đó sẽ đẩy mạnh thu hút đầu tư theo hướng chọn lọc hơn. Đó cần là những doanh nghiệp có công nghệ tốt, có nền quản trị hiện đại, thân thiện với môi trường, sẵn sàng kết nối cùng doanh nghiệp trong nước và phù hợp quá trình tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam”.

Nói về việc thu hút FDI trong thời gian tới, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan góp ý, đối với những dự án hứa hẹn vốn lớn như luyện thép, hóa dầu - nơi hàm chứa nhiều rủi ro về môi trường và thách thức tiêu tốn năng lượng - hoặc dự án có thể gây ra hệ quả ngoài tầm kiểm soát về xã hội, văn hóa như đầu tư casiono… thì đã đến lúc không nên cho được hưởng ưu đãi.

PGS. TS Lê Hoài Quốc - Trưởng Ban Quản lý Khu Công nghệ cao TPHCM, cho rằng khi doanh nghiệp nội có thể đảm đương đầu vào cho nhà đầu tư ngoại thì hiện tượng chuyển giá thông qua nhập khẩu hàng hóa cho sản xuất tại doanh nghiệp FDI sẽ bị hạn chế đáng kể.

Ngoài ra, để chính sách “nắn chỉnh” dòng FDI hiệu quả hơn, suy nghĩ và hành động của tất cả các chính quyền địa phương, các bộ ngành cũng cần phải đồng lòng, thống nhất. “Làm sao đó phải là rào cản kỹ thuật chung cho toàn quốc khi thu hút đầu tư chứ Bình Dương ‘bỏ’ mà chỗ khác ‘nhận’ theo kiểu cứ tặc lưỡi ‘có còn hơn không’ thì bao giờ mới khá được?”, Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương Trần Văn Nam tâm tư thêm.

Theo Báo điện tử Chính phủ

cung voi fdi the va luc cua nen kinh te da sang trang Tính đến 15/8, cán cân thương mại khối FDI thặng dư 17,13 tỷ USD
cung voi fdi the va luc cua nen kinh te da sang trang Hàng trăm tỷ USD vốn FDI: Chủ yếu công nghệ thấp, tập trung khai thác tài nguyên
cung voi fdi the va luc cua nen kinh te da sang trang Kinh nghiệm quốc tế về chuyển giá và bài học cho Việt Nam

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 144,700 147,700
Hà Nội - PNJ 144,700 147,700
Đà Nẵng - PNJ 144,700 147,700
Miền Tây - PNJ 144,700 147,700
Tây Nguyên - PNJ 144,700 147,700
Đông Nam Bộ - PNJ 144,700 147,700
Cập nhật: 31/10/2025 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,580 14,780
Miếng SJC Nghệ An 14,580 14,780
Miếng SJC Thái Bình 14,580 14,780
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,480 14,780
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,480 14,780
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,480 14,780
NL 99.99 13,880
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,880
Trang sức 99.9 13,870 14,770
Trang sức 99.99 13,880 14,780
Cập nhật: 31/10/2025 07:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,458 14,782
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,458 14,783
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,436 1,461
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,436 1,462
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,421 1,451
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 139,163 143,663
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,486 108,986
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,328 98,828
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 8,117 8,867
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,252 84,752
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,163 60,663
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 1,478
Cập nhật: 31/10/2025 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16764 17033 17610
CAD 18345 18621 19233
CHF 32305 32688 33333
CNY 0 3470 3830
EUR 29955 30228 31253
GBP 33914 34304 35235
HKD 0 3259 3461
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14874 15455
SGD 19732 20013 20534
THB 728 792 845
USD (1,2) 26067 0 0
USD (5,10,20) 26108 0 0
USD (50,100) 26136 26156 26345
Cập nhật: 31/10/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,140 26,140 26,345
USD(1-2-5) 25,095 - -
USD(10-20) 25,095 - -
EUR 30,202 30,226 31,361
JPY 169.7 170.01 177.05
GBP 34,404 34,497 35,278
AUD 17,119 17,181 17,614
CAD 18,601 18,661 19,182
CHF 32,669 32,771 33,422
SGD 19,950 20,012 20,626
CNY - 3,664 3,759
HKD 3,340 3,350 3,430
KRW 17.16 17.9 19.21
THB 777.93 787.54 837.01
NZD 14,934 15,073 15,412
SEK - 2,764 2,843
DKK - 4,041 4,155
NOK - 2,595 2,669
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,881.69 - 6,594.95
TWD 778.28 - 935.92
SAR - 6,926.44 7,246.4
KWD - 83,784 88,661
Cập nhật: 31/10/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,120 26,125 26,345
EUR 29,936 30,056 31,182
GBP 34,097 34,234 35,217
HKD 3,318 3,331 3,438
CHF 32,301 32,431 33,342
JPY 168.38 169.06 176.16
AUD 16,973 17,041 17,591
SGD 19,931 20,011 20,555
THB 790 793 829
CAD 18,524 18,598 19,140
NZD 14,933 15,434
KRW 17.74 19.42
Cập nhật: 31/10/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26175 26175 26345
AUD 16945 17045 17650
CAD 18526 18626 19227
CHF 32551 32581 33472
CNY 0 3667.5 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30138 30168 31191
GBP 34216 34266 35369
HKD 0 3390 0
JPY 167.64 168.14 175.18
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.191 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14983 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19885 20015 20747
THB 0 757.8 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 14580000 14580000 14780000
SBJ 13000000 13000000 14780000
Cập nhật: 31/10/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,153 26,203 26,345
USD20 26,153 26,203 26,345
USD1 26,153 26,203 26,345
AUD 17,031 17,131 18,240
EUR 30,290 30,290 31,650
CAD 18,486 18,586 19,897
SGD 19,972 20,122 21,025
JPY 168.62 170.12 174.7
GBP 34,352 34,502 35,278
XAU 14,458,000 0 14,662,000
CNY 0 3,554 0
THB 0 790 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 31/10/2025 07:00