Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam: Đừng tự… giết mình!?

06:30 | 01/04/2016

433 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo nhận định của giới chuyên gia, với một loạt các hiệp định thương mại tự do đã được ký kết, Việt Nam được đánh giá là đang nắm bắt nhiều lợi thế để phát triển, mở rộng thị trường. Tuy nhiên, ở chiều hướng ngược lại, khả năng đáp ứng của cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình này rất hạn chế. Thậm chí với quy mô nhỏ lẻ, thiếu chiến lược kinh doanh, làm ăn kiểu chụp giật, quản trị doanh nghiệp yếu, kém… trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra sôi động, mạnh mẽ như hiện nay, doanh nghiệp Việt đang tự đặt mình trước nguy cơ diệt vong, xóa sổ trên thị trường.

Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc tại Diễn đàn CEO 2015 khi đề cập đến những thách thức mà nền kinh tế đang phải đối diện trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đã thẳng thắn nêu quan điểm: Với việc có tới 96% doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, nền kinh tế đang rơi vào hội chứng doanh nghiệp cỡ vừa. Trong khi đó, thực tế phát triển kinh tế các nước cho thấy, doanh nghiệp cỡ vừa chính là mắt xích vô cùng quan trọng để nền kinh tế có thể kết nối vào giá trị toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang thiếu những doanh nghiệp cỡ lớn (chỉ có khoảng 2% doanh nghiệp lớn). Và nếu quá nhỏ thì sẽ không đủ năng lực về vốn, công nghệ, quản trị để có thể đạt chuẩn giá trị quốc tế, tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu.

cong dong doanh nghiep viet nam dung tu giet minh
Dệt may Việt Nam chủ yếu là gia công cắt, may

“Trong số các doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động thì doanh nghiệp lớn chỉ chiếm chưa đầy 2%, doanh nghiệp vừa chiếm 2%, còn lại 96% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Quy mô nhỏ, tính chất phi chính thức lớn, quản trị yếu kém, công nghệ thấp, khó tiếp cận nguồn vốn, khó tiếp cận thị trường, sức cạnh tranh không cao… đang là thực trạng phổ biến của các doanh nghiệp tư nhân trong nước” - Chủ tịch VCCI nói.

Trong khi đó, ông Đặng Đức Thành-Chủ nhiệm Câu lạc bộ Các nhà kinh tế (VEC), Ủy viên Ban Chấp hành Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam khi đề cập tới sự thiếu hụt doanh nghiệp “đủ tầm” trong nền kinh tế đã ví von rằng: “Nhà nước chỉ huy trận đánh kinh tế nhưng như “tướng không có quân”, không có những người lính làm kinh tế. Nguồn gốc sâu xa của các bất ổn về kinh tế; về nợ công tăng; bội chi ngân sách hằng năm tăng… đó chính là bắt nguồn từ doanh nghiệp chưa đủ về cả số lượng lẫn chất lượng (hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả). Đã không đủ số lượng và chất lượng doanh nghiệp lại rơi rụng dần, hoạt động bấp bênh”.

Nói vậy để thấy rằng, vị trí và vai trò của cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế, đưa nền kinh tế tham gia sau vào chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu là vô cùng lớn. Nhưng vì sao Việt Nam lại thiếu hụt một cách nghiêm trọng những doanh nghiệp đủ tầm, có quy mô, năng lực và trình độ quản trị biến lợi thế từ quá trình hội nhập kinh tế thành cơ hội phát triển đất nước như vậy?...

Câu trả lời cho những nội dung trên là không, thậm chí, trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng, Chính phủ đã ban hành và thực thi rất nhiều các chính sách hỗ trợ các ngành, các lĩnh vực, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. Chúng ta có thể kể đến các chiến lược phát triển ngành Dệt may, da giày, ôtô… hay như các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, rồi các chính sách ưu đãi thuế như thuế đất, thuế doanh nghiệp… Tất cả những chính sách đó được ban hành đều nhằm mục đích thúc đẩy các ngành, các lĩnh vực phát triển, khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư, nâng cao năng lực trình độ khoa học công nghệ... Nhưng như đã nói, sau 30 năm mở cửa hội nhập, Việt Nam hiện mới có chừng 400 ngàn doanh nghiệp và phần lớn trong số đó là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ!

Tại sao lại có tình trạng này?

Trước tiên chúng ta phải thấy rằng, doanh nghiệp Việt Nam “mãi không chịu” lớn, cứ nhỏ và siêu nhỏ là do lối tư duy làm ăn chụp giật, thiếu định hướng, thiếu chiến lược đầu tư dài hạn.

Chúng ta không khó để nhận ra lối tư duy này vào những năm 2006 - 2008 khi thị trường bất động sản sôi động, khả năng sinh lời cao. Doanh nghiệp bất kể là đang hoạt động ở ngành nghề kinh doanh hay lĩnh vực nào cũng nhao vào đầu tư các dự án bất động sản. Nhỏ thì làm 1, 2 tòa đơn lẻ, còn lớn hơn chút, có tiềm lực một chút thì nhao vào đầu tư cả khu, cả cụm khu đô thị. Trong xu hướng đó, có không ít doanh nghiệp đã vượt lên, vươn mình trở thành đại gia, tổng công ty, tập đoàn lớn của nền kinh tế nhưng cũng có không ít doanh nghiệp đã phải “bỏ mạng” trong cuộc chơi đó. Những con số thống kê về số doanh nghiệp phải giải thể, phá sản của các cơ quan chức năng đưa ra thời gian qua đã cho thấy điều đó. Và họ “chết” phần lớn là vì đầu tư theo kiểu chạy theo trào lưu chứ không phải chiến lược. Những chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư của Đảng, Chính phủ đưa ra đã vì thế cũng mang lại hiệu quả hết sức khiêm tốn.

Không chỉ hạn chế về quy mô, kém về năng lực, tư duy làm ăn “nông dân”, tính liên kết của các doanh nghiệp Việt Nam trong một ngành, một lĩnh vực rất hạn chế. Và nó cũng xuất phát từ thói quen làm ăn chụp giật, ăn xổi ở thì của hầu hết các doanh nghiệp. Doanh nghiệp khi tham gia đầu tư vào lĩnh vực nào cũng chỉ nhăm nhăm chọn cho mình khâu có khả năng sinh lời cao nhất, nhanh nhất mà không một ai tính đến việc đầu tư vào các khâu, các mắt xích khác của chuỗi sản xuất hoặc chia sẻ lợi nhuận với các khâu khác để tạo sự phát triển bền vững cả. Và câu chuyện của ngành dệt may chính là minh chứng rõ nhất cho nhận định trên.

Theo đó, hoạt động của ngành dệt may trải dài qua nhiều khâu như sản xuất xơ, sợi, kéo sợi, dệt vải, nhuộm, may mặc… Việc hoàn thiện và phát triển chuỗi sản xuất này được xác định là điều kiện tiên quyết để ngành công nghiệp dệt may phát triển. Tuy nhiên, thực tế thì sao, sau 6 năm triển khai “Chiến lược phát triển, ngành công nghiệp dệt may” vẫn là con số 0 tròn trĩnh. Giám đốc một doanh nghiệp dệt may lớn ở Hà Nội từng thông tin rằng, phần lớn nguyên phụ liệu dệt may hiện nay là đi nhập khẩu, cá biệt có những phụ liệu các doanh nghiệp phải nhập tới 90%. Vải dùng cho may mặc xuất khẩu thì toàn là vải nhập khẩu, vải sản xuất trong nước nếu có thì cũng chỉ may được quần áo bán trong nước, cùng lắm là bán sang các nước như Lào, Campuchia. Doanh nghiệp nào khi tham gia chuỗi cung ứng này cũng đều nhăm nhăm chọn đầu tư vào khâu may mặc mà không chú ý đến các khâu khác vì tỉ suất lợi nhuận ở khâu này là cao nhất.

Nhưng cũng chính bởi tư duy, cách làm như vậy nên giờ đây, khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương được ký kết có hiệu lực, doanh nghiệp Việt Nam đang đối diện với nguy cơ rủi ro rất lớn. Như ngành dệt may, việc không đáp ứng được yêu cầu xuất xứ nguyên phụ liệu sẽ khiến các doanh nghiệp dệt may không được hưởng thuế xuất 0% vào thị trường Hoa Kỳ - thị trường được kỳ vọng sẽ mang lại cho dệt may Việt Nam hàng tỉ USD.

Không phát triển, mở rộng được thị trường đã đành nhưng các doanh nghiệp Việt Nam còn phải đối diện với nguy cơ thua ngay trên sân nhà bởi cùng với việc mở rộng phát triển thị trường, họ sẽ phải chịu sự cạnh tranh hết sức khốc liệt từ các doanh nghiệp đến từ các nền kinh tế khác. Mà có một điều chắc chắn, nếu xét về năng lực, trình độ thì những doanh nghiệp đến từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc hay các nước EU sẽ cao hơn Việt Nam rất nhiều.

Yêu cầu đổi mới tư duy quản lý, làm ăn kinh tế đang cấp bách hơn bao giờ hết và nếu không có những sự thay đổi kịp thời, chắc chắn, trong dòng chảy hội nhập kinh tế, doanh nghiệp sẽ bị nhấn chìm bất kỳ lúc nào!

 

Thanh Ngọc

Năng lượng Mới 510

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,250 75,250
Nguyên liệu 999 - HN 74,150 75,150
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 28/04/2024 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 28/04/2024 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 28/04/2024 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 28/04/2024 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 28/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,236 16,256 16,856
CAD 18,226 18,236 18,936
CHF 27,195 27,215 28,165
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,092 31,102 32,272
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 155.83 155.98 165.53
KRW 16.19 16.39 20.19
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,215 2,335
NZD 14,779 14,789 15,369
SEK - 2,245 2,380
SGD 18,035 18,045 18,845
THB 632.42 672.42 700.42
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 28/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 28/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/04/2024 17:00