Chưa dứt nợ xấu, ngân hàng khó tái cấu trúc

09:22 | 23/10/2012

525 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Quá trình tái cấu trúc ngân hàng (NH) đã được khởi động nhưng dường như những kết quả đạt được chưa thực sự nhiều. Nợ xấu vẫn là sự ám ảnh đáng sợ và sẽ là vướng mắc lớn nhất cho quá trình lột xác của các NH.

Vẫn nỗi lo thanh khoản

Thời điểm cuối năm, tình trạng NH vượt rào lãi suất ngày càng nhiều thông qua nhiều hình thức như khuyến mãi, tiết kiệm dự thưởng, hợp thức hóa khoản gửi ngắn hạn thành dài hạn, tiết kiệm linh hoạt… lại đang nóng lên và gây áp lực không nhỏ tới nỗ lực giảm khó cho các doanh nghiệp trong nước. Lãnh đạo một ngân hàng cũng thừa nhận tình trạng này, và cho biết, không chỉ các ngân hàng nhỏ, một số ngân hàng lớn thuộc nhóm 1 cũng đã vào cuộc đua lãi suất.


Cuộc đua lãi suất nổi lên gần đây có vẻ như đang mâu thuẫn với sự mất cân đối giữa huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng trong 9 tháng qua

Trao đổi tại một buổi tọa đàm gần đây, nhiều DN cho biết vẫn phải vay vốn ngân hàng hàng ở mức rất cao, có khi lên tới 20%. Nguyên nhân được phân tích là do lãi suất cho vay đang bị đẩy và một số ngân hàng đang xé rào lãi suất tiền gửi, giống như những gì đã diễn ra trong năm 2011.

Mặt bằng chung lãi suất được các nhân viên ngân hàng tư vấn cho khách hàng nếu tính đầy đủ phổ biến ở mức 11-12%/năm với các khoản gửi vài trăm triệu trở lên. Thậm chí, giám đốc một doanh nghiệp cho biết, lãi suất tiền gửi có thể lên tới 15%/năm.

Ông Trần Hoàng Ngân - thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính, Tiền tệ Quốc gia - cũng cho biết, tình trạng huy động lãi suất vượt trần đang lặp lại mà nguyên nhân sâu xa là nợ xấu chưa được giải quyết dứt điểm.

Tình trạng thị trường vàng sốt với giá tăng vọt, cao hơn giá thế giới quy đổi trên 3 triệu đồng/lượng hồi đầu tháng 10 vừa qua có lẽ cũng có mối liên quan chặt chẽ với việc ngân hàng ráo riết huy động vốn để chi trả cho các khoản huy động trước đó hoặc mua vàng trả lại cho khách hàng.

Hiện tượng vượt rào lãi suất huy động, đặc biệt tại các ngân hàng nhỏ, cho thấy một sự thật về thanh khoản tại các tổ chức này. Theo đó, lượng dư tiền không dồi dào như nhiều người nghĩ nếu chỉ đánh giá dựa trên mức chênh khá lớn giữa mức tăng trưởng huy động cao và tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp trong thời gian vừa qua. Nó cũng cho thấy, với mức đầu vào cao như vậy, lãi suất đầu ra cho các doanh nghiệp khó có thể ở mức thấp.

Xử lý nợ xấu, tiến triển chậm

Trao đổi mới đây, ông Vũ Thành Tự Anh - Giám đốc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright cho rằng, vấn đề nợ xấu trong hệ thống ngân hàng - rủi ro lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam chưa được giải quyết, chưa có tiến triển đáng kể nào.

Trên thực tế, mặc dù tín dụng tăng chậm và các doanh nghiệp rất khó tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng nhưng các tổ chức tín dụng vẫn gia sức tăng cường huy động vốn. Tính tới 20/9, tổng dư nợ tín dụng tăng khoảng 2,35% so với thời điểm 31/12/2011. Trong khi đó, tổng dư tiền gửi ở các tổ chức này tăng 11,23%.

Cuộc đua lãi suất nổi lên gần đây có vẻ như đang mâu thuẫn với sự mất cân đối giữa huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng trong 9 tháng qua. Và để giải thích cho hiện tượng này, không ít các chuyên gia đang nhắc tới khả năng thanh khoản đang kém đi do ngân hàng khó thu hồi các khoản nợ xấu cũ.

Tại diễn đàn Quốc hồi hồi tháng 3/2012, lần đầu tiên Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết, nợ xấu của hệ thống ngân hàng có thể trên 10%, cao hơn nhiều so với số liệu trung bình được NHNN tổng hợp từ báo cáo của các ngân hàng là 3,6%. Thanh tra NHNN, con số nợ xấu toàn ngành tính tới 31/3/2012 là 202.000 tỉ đồng, tương đương 8,6%.

Diễn biến thực tế cho thấy, nợ xấu toàn hệ thống sẽ tăng lên do kinh tế còn khó khăn, DN chưa thể trả nợ NH. Tốc độ gia tăng nợ xấu trong 6 tháng đầu năm là quá nhanh. Thống kê của NHNN cho thấy, tỷ lệ nợ xấu trung bình của khu vực ngân hàng hồi tháng 12/2010 là 2,16%; tháng 5/2011 là 2,37%; tháng 9/2011 là 3,31%; tháng 3/2012 là 3,6%; tháng 4/2012 là 4,14% và tháng 5/2012 là 10%.

Chuyên gia tài chính ngân hàng, ông Nguyễn Trí Hiếu cũng e ngại nợ xấu thực của ngành có thể vọt lên trên 10% và đây là mức mà Nhà nước không có đủ nguồn lực để xử lý.

Theo ông Tự Anh, để giải quyết vấn đề nợ xấu thì việc đầu tiên phải đo lường được chính xác mức độ nợ xấu. Trong khi đó, về vấn đề này, Thanh tra NHNN cũng thừa nhận có tình trạng nhiều NH che giấu nợ xấu và khó có thể thanh tra đồng loạt với cả trăm tổ chức tín dụng như vậy được.

Một điều đáng quan tâm là nợ xấu lại nằm ở khối doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) nhiều. Theo tính toán của Fulbright, tỷ lệ nợ xấu của khối này có thể chiếm 70%. Vấn đề nằm ở chỗ, nợ của các DNNN nhiều khi là tín dụng chỉ định, không có tài sản thế giới. Do vậy, không dễ để giải quyết 1 vấn đề như vậy.

Ông Anh tính toán: “giả sử nợ xấu chiếm 10% dư nợ tín dụng, con số nợ xấu sẽ vào khoảng 14 tỉ USD. Đây là 1 con số lớn so với nền kinh tế Việt Nam khi mà GDP chỉ đạt khoảng 100 tỉ USD. Và các ngân hàng khó có thể tự xử lý bởi không đủ nguồn lực, trong khi trích lập dự phòng thấp. Nếu dùng Công ty mua bán nợ Việt Nam (DATC) để giải quyết thì có lẽ cũng khó bởi tổ chức này chỉ có quy mô 3.000 tỉ đồng.

Việc hình thành 1 công ty mua bán nợ khác, quy mô lớn hơn (đề xuất 100.000 tỉ đồng) lại đang vướng mắc ở chỗ: nguồn vốn lấy từ đâu và cơ chế mua bán nợ như thế nào. Bên cạnh đó, rào cản lớn nhất đối với giải pháp này có lẽ là sự thật về những thất thoát tại các DNNN sẽ được xử lý thế nào?.

Rõ ràng, việc tái cấu trúc hệ thống NH dù đã đạt được một số kết quả bước đầu nhưng sẽ khó có những bước tiến mới để tạo ra sự thay đổi thật sự cho ngành ngân hàng khi nợ xấu vẫn còn đó và chưa thể dứt điểm một sớm một chiều.

Vietnamnet

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 19:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 19:00