Châu Á đang phát triển giảm 0,4% trong năm 2020

11:16 | 10/12/2020

157 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Hoạt động kinh tế ở châu Á đang phát triển được dự báo thu hẹp 0,4% trong năm nay, trước khi tăng trưởng tới 6,8% trong năm 2021 khi khu vực này phục hồi từ những tác động của đại dịch gây ra bởi vi-rút corona (Covid-19), theo nhận định trong một báo cáo được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày hôm nay.

Theo báo cáo Cập nhật Triển vọng phát triển châu Á (ADO) 2020, dự báo tăng trưởng mới là sự cải thiện từ mức dự báo âm (-) 0,7% đối với tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong tháng 9, trong khi triển vọng của năm 2021 vẫn được giữ nguyên. Song các dự báo triển vọng trong vùng là rất khác nhau, với Đông Á được kỳ vọng tăng trưởng trong năm nay trong khi các tiểu vùng khác tăng trưởng âm.

Chuyên gia Kinh tế trưởng của ADB Yasuyuki Sawada chia sẻ: “Triển vọng của châu Á đang phát triển đang cho thấy sự cải thiện. Các dự báo tăng trưởng đã được nâng lên đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) và Ấn Độ, hai nền kinh tế lớn nhất của khu vực. Đại dịch kéo dài vẫn là nguy cơ chủ yếu, song những tiến triển gần đây trong lĩnh vực vắc-xin đang làm dịu bớt nguy cơ này. Việc cung cấp vắc-xin an toàn, hiệu quả và kịp thời ở các nền kinh tế đang phát triển sẽ là yếu tố then chốt để hỗ trợ quá trình mở cửa lại các nền kinh tế và phục hồi tăng trưởng trong vùng”.

Châu Á đang phát triển giảm 0,4% trong năm 2020
Châu Á đang phát triển giảm 0,4% trong năm 2020 (ảnh minh họa)

Việc phong tỏa và các hạn chế do đại dịch gây ra đã được giảm bớt với những mức độ khác nhau trong khu vực, trong đó xuất khẩu hàng hóa đã được khôi phục nhanh chóng từ mức sụt giảm đáng kể trong quý 2. Hoạt động đi lại cũng đang trở lại mức như trước khi có đại dịch Covid-19 ở Đông Á và Thái Bình Dương, trong khi sự lây lan của Covid-19 phần lớn đã được kiềm chế hoặc ngăn chặn trong những tháng gần đây. Tuy nhiên, sự phục hồi của ngành du lịch nhiều khả năng vẫn bị trì hoãn.

Hầu hết các tiểu vùng của châu Á đang phát triển được dự báo giảm tăng trưởng trong năm nay. Đông Á là ngoại lệ, với mức dự báo tăng trưởng được cải thiện ở mức 1,6% trong năm 2020, dựa trên sự phục hồi nhanh hơn kỳ vọng tại Trung Quốc và Đài Loan, Trung Quốc. Triển vọng tăng trưởng của Đông Á trong năm 2021 được duy trì ở mức 7%.

Tăng trưởng GDP của Nam Á được dự báo giảm 6,1% trong năm 2020, có sự điều chỉnh nhẹ so với mức giảm 6,8% được dự báo trong tháng 9. Tăng trưởng ở Nam Á được kỳ vọng khôi phục ở mức 7,2% trong năm 2021. Dự báo tăng trưởng cho Ấn Độ, nền kinh tế lớn nhất tiểu vùng, cho năm tài khóa 2020 đã tăng từ mức âm (-) 9,0% hồi tháng 9 lên tới âm (-) 8%, trong khi triển vọng của năm tài khóa 2021 được giữ nguyên ở mức 8,0%.

Tăng trưởng kinh tế ở Đông Nam Á vẫn chịu áp lực khi những đợt bùng phát Covid-19 và các biện pháp ngăn chặn vẫn tiếp tục, nhất là ở Indonesia, Malaysia và Philippines. Triển vọng tăng trưởng của tiểu vùng cho năm 2020 đã được điều chỉnh giảm từ âm (-) 3,8% trong tháng 9 xuống còn âm (-) 4,4%. Triển vọng của tiểu vùng trong năm 2021 cũng được điều chỉnh giảm, với Đông Nam Á hiện được kỳ vọng tăng trưởng 5,2% trong năm sau, so với mức dự báo 5,5% trong tháng 9.

Kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh từ 0,4% trong quý 2 năm 2020 lên 2,6% trong quý 3, nâng mức tăng trưởng bình quân trong giai đoạn tháng 1 đến tháng 9 lên 2,1%. Dự báo tăng trưởng cho năm 2020 được điều chỉnh tăng từ 1,8% lên 2,3% do đẩy mạnh đầu tư công, tiêu dùng trong nước phục hồi, thương mại gia tăng, và kinh tế phục hồi nhanh chóng ở Trung Quốc. Dự báo tăng trưởng cho năm 2021 được điều chỉnh giảm nhẹ xuống 6,1%.

Triển vọng cho Thái Bình Dương không thay đổi cho cả năm 2020 và 2021, ở mức tương ứng là âm (-) 6,1% và 1,3. Triển vọng tăng trưởng của Trung Á cho năm 2020 vẫn là âm (-) 2,1%, song triển vọng cho năm 2021 được điều chỉnh giảm nhẹ, từ mức dự báo 3,9% hồi tháng 9 xuống còn 3,8%.

Lạm phát trong khu vực được kỳ vọng giảm nhẹ còn 2,8% trong năm 2020, so với mức dự báo 2,9% hồi tháng 9, do nhu cầu bị kiềm chế và giá dầu giảm. Lạm phát của năm 2021 được dự báo ở mức 1,9%, giảm so với mức dự báo 2,3% trong tháng 9. Giá dầu vẫn được giữ ở mức 42,5 USD/thùng trong năm 2020, trước khi tăng lên tới 50 USD/thùng trong năm 2021.

ADB phân bổ 20 triệu USD giúp các thành viên đang phát triển tiếp cận vắc-xin Covid-19ADB phân bổ 20 triệu USD giúp các thành viên đang phát triển tiếp cận vắc-xin Covid-19
ADB phê duyệt khoản viện trợ 2,5 triệu USD để hỗ trợ Việt Nam ứng phó thiên taiADB phê duyệt khoản viện trợ 2,5 triệu USD để hỗ trợ Việt Nam ứng phó thiên tai
ADB: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là then chốt phục hồi kinh tế hậu Covid-19ADB: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là then chốt phục hồi kinh tế hậu Covid-19
ADB ký kết khoản vay chứng nhận xanh đầu tiên của Việt NamADB ký kết khoản vay chứng nhận xanh đầu tiên của Việt Nam
Cải thiện tâm lý giúp tăng trái phiếu của khu vực Đông Á mới nổiCải thiện tâm lý giúp tăng trái phiếu của khu vực Đông Á mới nổi
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng vững vàng bất chấp thách thức từ Covid-19Kinh tế Việt Nam tăng trưởng vững vàng bất chấp thách thức từ Covid-19

H.A

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 74,400 75,600
Nguyên liệu 999 - HN 74,300 75,500
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 82.100 84.100
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 82.100 84.100
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 82.100 84.100
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,435 7,650
Trang sức 99.9 7,425 7,640
NL 99.99 7,430
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,410
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,500 7,680
Miếng SJC Thái Bình 8,210 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,210 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,210 8,400
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,100 84,100
SJC 5c 82,100 84,120
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,100 84,130
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 76,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 76,700
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,900
Nữ Trang 99% 73,149 75,149
Nữ Trang 68% 49,267 51,767
Nữ Trang 41.7% 29,303 31,803
Cập nhật: 19/04/2024 00:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,802.74 15,962.37 16,474.59
CAD 17,830.93 18,011.04 18,589.00
CHF 27,037.08 27,310.18 28,186.55
CNY 3,419.83 3,454.37 3,565.76
DKK - 3,534.07 3,669.44
EUR 26,168.83 26,433.16 27,603.92
GBP 30,667.37 30,977.14 31,971.18
HKD 3,144.63 3,176.39 3,278.32
INR - 301.14 313.19
JPY 158.53 160.13 167.79
KRW 15.77 17.53 19.12
KWD - 81,790.33 85,060.87
MYR - 5,219.21 5,333.08
NOK - 2,258.10 2,353.99
RUB - 254.56 281.80
SAR - 6,718.10 6,986.74
SEK - 2,263.43 2,359.55
SGD 18,067.70 18,250.20 18,835.84
THB 606.11 673.46 699.26
USD 25,100.00 25,130.00 25,440.00
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,037 16,057 16,657
CAD 18,172 18,182 18,882
CHF 27,367 27,387 28,337
CNY - 3,443 3,583
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,238 26,448 27,738
GBP 31,116 31,126 32,296
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.24 16.44 20.24
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,225 2,345
NZD 14,775 14,785 15,365
SEK - 2,249 2,384
SGD 18,118 18,128 18,928
THB 638.27 678.27 706.27
USD #25,145 25,145 25,440
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,325.00 26,431.00 27,607.00
GBP 30,757.00 30,943.00 31,897.00
HKD 3,164.00 3,177.00 3,280.00
CHF 27,183.00 27,292.00 28,129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15,911.00 15,975.00 16,463.00
SGD 18,186.00 18,259.00 18,792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17,956.00 18,028.00 18,551.00
NZD 14,666.00 15,158.00
KRW 17.43 19.02
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25225 25275 25442
AUD 16138 16188 16591
CAD 18211 18261 18666
CHF 27736 27786 28199
CNY 0 3479.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26808 26858 27368
GBP 31508 31558 32018
HKD 0 3115 0
JPY 162.51 163.01 167.54
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0372 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14819 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18515 18515 18872
THB 0 651.3 0
TWD 0 777 0
XAU 8220000 8220000 8390000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 00:02