Nhập khẩu than cần có chiến lược dài hạn

17:43 | 10/06/2017

1,126 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Do khối lượng nhập khẩu than rất lớn cho sản xuất điện những năm tới nên cần có chiến lược dài hạn nhằm xác định nguồn than nhập khẩu, tổ chức vận chuyển than, xúc tiến việc đầu tư khai thác than tại các mỏ ở nước ngoài…

Đó là ý kiến của PGS.TS Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật nhiệt Việt Nam (VTA) tại Đại hội đại biểu toàn quốc nhiệm kỳ VI ngày 27-5 mới đây. Theo đó, đến năm 2030 nhu cầu than để sản xuất điện vào khoảng 130-150 triệu tấn. Than nội địa chỉ đáp ứng tối đa 30-40 triệu tấn. Khối lượng than nhập khẩu lên tới cả trăm triệu tấn.

Chuyên gia này cũng cho rằng, với than nhập khẩu, do khối lượng nhập khẩu rất lớn nên cần có chiến lược dài hạn nhằm xác định nguồn than nhập khẩu, tổ chức vận chuyển than, xúc tiến việc đầu tư khai thác than tại các mỏ ở nước ngoài… “Than nội địa khó cháy, hiệu suất cháy thấp nên việc đốt than trộn giữa than nội địa với than nhập khẩu dễ cháy cần được coi là một nhiệm vụ bắt buộc của các nhà máy nhiệt điện đốt than”, ông Nghĩa cho hay.

nhap khau than can co chien luoc dai han
PGS.TS Trương Duy Nghĩa trình bày báo cáo tại Đại hội VTA nhiệm kỳ 2017-2022

Đánh giá về sự phát triển nhiệt điện, Chủ tịch VTA đánh giá: Trong lịch sử phát triển điện năng của thế giới, nhiệt điện than luôn có vai trò chủ yếu. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), năm 2014 nhiệt điện than chiếm 41% tổng sản lượng điện thế giới, gấp 2 lần nhiệt điện khí, 3 lần thủy điện, 4 lần điện hạt nhân, 10 lần điện tái tạo. Những nước có tỷ lệ nhiệt điện than cao là Trung Quốc (79%), Australia 68,6%, Ấn Độ 67,9%, Đức 45,1%, Indonesia 44,4%, Hàn Quốc 43,2%...

“Nói vậy để thấy nhiệt điện ở Việt Nam so với thế giới không phải là nhiều. Theo quy hoạch điện VII điều chỉnh, ở Việt Nam nhiệt điện than chiếm 55% tới năm 2025, 53,2% tới năm 2030. Nay điện hạt nhân chưa đưa vào, việc đẩy nhanh các nguồn năng lượng khác còn có nhiều khó khăn thì khả năng tỷ lệ nhiệt điện than tới 60% hoặc cao hơn là thực tế”.

Đề cập tới vấn đề quan tâm nhất hiện nay là môi trường, Chủ tịch Trương Duy Nghĩa cho biết: Các nhà máy nhiệt điện đốt than tiêu thụ một khối lượng rất lớn than nên cũng sản sinh ra một khối lượng lớn chất thải độc hại, trong đó có chất thải rắn là tro xỉ và bụi, các khí độc hại SO2, NOx, nước thải của quá trình sản xuất công nghiệp. Tuy sản sinh ra nhiều chất thải độc hại nhưng về bản chất, các nhiệt điện than không gây nguy hại cho môi trường do đã được đầu tư đầy đủ và nghiêm túc để xử lý. Tuy nhiên, nếu các hệ thống xử lý chất thải bị trục trặc thì sẽ rất nguy hại cho môi trường. Vì vậy các nhiệt điện than cần được quan trắc đầy đủ và nối mạng về môi trường.

Được biết, mục tiêu sắp tới của VTA sẽ sớm hoàn thành đề án tổng thể phát triển nhiệt điện than ở Việt Nam tới năm 2030 và xa hơn. Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học lớn do Bộ Công Thương giao, đề cập đến những vấn đề về môi trường của nhiệt điện than; về công tác xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn về nhiệt điện than; về chiến lược cung cấp than nội địa và than nhập khẩu cho nhiệt điện than; về xây dựng ngành công nghiệp chế tạo nhà máy nhiệt điện; về các vấn đề bảo đảm tài chính và hiệu quả kinh tế đầu tư nhiệt điện than; về đào tạo nhân lực và nghiên cứu khoa học về nhiệt điện than; về quy hoạch phát triển nhiệt điện than và các quy hoạch khác (phát triển điện năng, khai thác và cung cấp than…).

Trong nhiệm kỳ 2017-2022 với mục tiêu “Gắn kết - Phát triển - Bền vững” VTA sẽ tiếp tục phát huy vai trò, khả năng và lĩnh vực chuyên môn của Hội trong xã hội như tiếp tục phát triển các chi hội mới ở các nhà máy nhiệt điện và tổ chức Đại hội các chi hội; tiếp tục triển khai thực hiện đề tài nghiên cứu than trộn (pha 2); tham gia tích cực các hoạt động tư vấn, đặc biệt tư vấn về những vấn đề liên quan đến nhiệt điện than, đến việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. VTA cũng sẽ tiếp tục phát huy tín nhiệm trong việc thẩm định các dự án đầu tư xây dựng các nhà máy phát điện…

Minh Châu