Xuất khẩu thủy sản có thể đạt 9 tỷ USD

13:20 | 04/10/2018

395 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), ngành thủy sản Việt Nam sẽ đạt doanh số xuất khẩu khoảng 8,9-9 tỷ USD trong năm 2018.

Thị trường Mỹ "gỡ rào"

Xuất khẩu thủy sản có xu hướng phục hồi từ tháng 8/2018 đến nay và tăng trưởng khả quan với mức tăng gần 8% đạt 847 triệu USD trong tháng 9/2018.

Tính trong 9 tháng đầu năm, tổng xuất khẩu thủy sản của cả nước đạt 6,42 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức tăng trưởng khá trong bối cảnh giá tôm xuất khẩu sụt giảm liên tục trong nhiều tháng qua và hải sản Việt Nam bị cảnh cáo thẻ vàng về IUU ở thị trường EU cùng nhiều rào cản kỹ thuật, thuế chống bán phá giá mà các thị trường nhập khẩu đặt ra.

xuat khau thuy san co the dat 9 ty usd
Không khí lao động của công nhân nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu.

Đáng chú ý, xuất khẩu thủy sản đang có cơ hội rộng mở hơn tại thị trường Mỹ khi một loạt những rào cản dần được tháo gỡ.

Mới đây, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã thông báo kết quả cuối cùng thuế chống bán phá giá cho tôm Việt Nam trong giai đoạn xem xét hành chính lần thứ 12 (POR12) từ ngày 1/2/2016 đến 31/1/2017. Theo đó, mức thuế đối với tôm nhập khẩu từ Việt Nam ở mức 4,58%, thấp hơn 5 lần so với so với kết quả sơ bộ 25,39% công bố trước đó. Kết quả này cũng khả quan hơn so với mức thuế cuối cùng của giai đoạn POR11.

Theo ông Trần Văn Lĩnh - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thủy sản và Thương mại Thuận Phước, thuế chống bán phá giá cao là một trong những nguyên nhân chính khiến xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Mỹ liên tục sụt giảm kể từ năm 2017 đến nay.

Do vậy, việc Mỹ áp mức thuế POR12 thấp hơn nhiều so với dự kiến là điều kiện thuận lợi để tôm Việt Nam có thể nâng cao sức cạnh tranh ở thị trường này trong thời gian tới. Hiện Mỹ là một trong những thị trường nhập khẩu tôm lớn thứ 3 của Việt Nam, chiếm khoảng 17% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam đi các thị trường, với kim ngạch đạt trên 600 triệu USD/năm.

Không chỉ riêng mặt hàng tôm, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra cũng liên tục nhận được tín hiệu tích cực từ thị trường Mỹ. Giữa tháng 9/2018, DOC thông báo kết quả sơ bộ thuế chống bán phá giá cá tra POR14 giai đoạn từ ngày 1/8/2016-31/7/2017 với mức thuế thấp hơn rất nhiều so với kết quả cuối cùng của đợt rà soát trước đó. Dù chưa phải là kết quả chính thức, nhưng đây cũng là tín hiệu đáng mừng cho ngành cá tra Việt Nam.

Cũng trong khoảng thời gian này, Cục kiểm tra An toàn thực phẩm (FSIS) của Mỹ đề xuất công nhận hệ thống kiểm tra cá tra Việt Nam tương đương với Mỹ, nghĩa là cá tra Việt Nam đủ điều kiện xuất sang Mỹ. Ông Trương Đình Hòe - Tổng thư ký VASEP - cho biết việc FSIS công nhận hệ thống kiểm soát cá da trơn của Việt Nam tương đương với Mỹ có ý nghĩa rất lớn, chứng minh quy trình sản xuất cá tra của Việt Nam được tổ chức kiểm soát tốt và hoàn toàn đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Điều này sẽ góp phần nâng cao uy tín, hình ảnh cá tra Việt Nam không chỉ riêng ở thị trường Mỹ mà còn ở các thị trường nhập khẩu khác hiện nay. Những năm gần đây, thuế chống bán phá giá và Luật FarmBill là rào cản lớn nhất khiến xuất khẩu tôm và cá tra của Việt Nam “mắc nghẽn” ở thị trường Mỹ. Do vậy, với tín hiệu tích cực này thì xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam được dự báo sẽ “rộng cửa” hơn ở thị trường Mỹ trong thời gian tới.

Triển vọng quý IV

Theo các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản, kết thúc quý III cũng là thời điểm các doanh nghiệp đang đẩy mạnh việc thu mua nguyên liệu và tăng cường ký các đơn hàng xuất khẩu phục vụ cho dịp lễ, tết ở các thị trường nhập khẩu. Dự báo, nhu cầu tiêu thụ cá tra sẽ tiếp tục tăng trong các tháng cuối năm và giá tôm sẽ có xu hướng hồi phục nhẹ sau nhiều tháng sụt giảm liên tiếp.

xuat khau thuy san co the dat 9 ty usd
Xuất khẩu thủy sản sẽ tăng trưởng mạnh trong 3 tháng cuối năm 2018.

Dự báo của VASEP cho thấy với mức tăng trưởng hiện nay cùng với những yếu tố thuận lợi từ thị trường, dự báo xuất khẩu thủy sản quý 4 sẽ đạt kết quả cao hơn cùng kỳ năm ngoái với kim ngạch khoảng 2,5 tỷ USD. Theo đó, ngành thủy sản Việt Nam sẽ cán đích năm 2018 với doanh số xuất khẩu khoảng 8,9-9 tỷ USD, tăng 7% so năm 2017.

Xuất khẩu cá tra tiếp tục là điểm sáng của ngành thủy sản Việt Nam trong năm 2018. Không chỉ riêng thị trường Mỹ có xu hướng tăng trưởng mạnh, mà xuất khẩu cá tra sang EU cũng đang bắt đầu tăng dần từ tháng 6/2018 đến nay, sau ba năm liên tiếp dường như không tìm thấy “lối thoát” do nhiều lần bị bôi xấu hình ảnh.

Trong tám tháng năm 2018, tổng giá trị xuất cá tra sang EU đạt trên 160 triệu USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng trưởng dương này được dự báo còn tiếp tục kéo dài cho tới hết năm 2018.

Nhờ mức tăng trưởng giá trị xuất khẩu khả quan sang một số thị trường lớn như nên tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này vượt so với dự đoán. Xuất khẩu cá tra trong tháng Chín tiếp tục tăng mạnh 45% đạt 205 triệu USD, đưa tổng xuất khẩu chín tháng qua lên 1,6 tỷ USD, tăng 24% so với cùng kỳ năm ngoái.

VASEP dự báo xuất khẩu cá tra sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những tháng cuối năm và sẽ cán đích với mức 2,1 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2017. Đối với mặt hàng tôm xuất khẩu, với những tín hiệu tích cực từ thị trường Mỹ cùng với đợt cao điểm tiêu thụ tôm ở các thị trường, xuất khẩu tôm Việt Nam dự báo sẽ khởi sắc dần trong những tháng cuối năm.

Tuy nhiên, do nguồn cung tôm nuôi từ các nước sản xuất chính trên thế giới vẫn lớn nên giá tôm thế giới gần như không tăng, thậm chí ở một số nước đang bán cạnh tranh giá thấp đã tác động mạnh đến thị trường xuất khẩu.

Do vậy, dù nhu cầu có tăng vào những tháng cuối năm nhưng với xu hướng hiện nay, xuất khẩu tôm cả năm 2018 khó tăng trưởng mạnh, chỉ có thể duy trì ở mức tương đương năm 2017, với gần 3,8 tỷ USD. Sự tăng trưởng thấp của ngành này cũng là lý do khiến xuất khẩu thuỷ sản khó đạt mục tiêu 10 tỷ USD trong năm nay như kế hoạch đã đề ra.

Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu khác như cá ngừ, mực, bạch tuộc, cá biển... cũng được dự báo có mức tăng trưởng khá trong năm 2018, đạt khoảng 650 triệu USD mỗi sản phẩm, tăng 8% so với năm 2017.

Riêng mặt hàng cá ngừ, do nguồn cung giảm đã khiến giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam tăng lên trong thời gian gần đây. Trong tháng 8/2018, xuất khẩu cá ngừ tăng mạnh đến 20% và tiếp tục tăng 22% trong tháng Chín, đạt gần 54 triệu USD, đưa kết quả chín tháng qua lên 485 triệu USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo các chuyên gia, mặc dù có nhiều tín hiệu tích cực, tuy nhiên xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức kể cả thị trường nhập khẩu hay trong nội tại ngành.

Do vậy, các doanh nghiệp cần tập trung xây dựng các liên kết chuỗi từ khâu nuôi trồng nguyên liệu đến chế biến, nhằm kiểm soát vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm cũng như nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

xuat khau thuy san co the dat 9 ty usd Thủy sản Việt “khóc ròng” vì khó đưa hàng vào siêu thị
xuat khau thuy san co the dat 9 ty usd 9 tháng đầu năm GDP cả nước tăng 6,98%, mức cao nhất 8 năm trở lại đây
xuat khau thuy san co the dat 9 ty usd Hoa Kỳ giảm mạnh thuế mặt hàng cá tra - basa của Việt Nam
xuat khau thuy san co the dat 9 ty usd Tôm Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ chỉ chịu mức thuế 4,58%
xuat khau thuy san co the dat 9 ty usd Đón tin vui từ Mỹ, ông Dương Ngọc Minh và loạt đại gia thủy sản “phục hận”
xuat khau thuy san co the dat 9 ty usd Khoa học và công nghệ nâng cao giá trị gia tăng ngành nông nghiệp

Tùng Dương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 113,000 ▲7500K 115,500 ▲7500K
AVPL/SJC HCM 113,000 ▲7500K 115,500 ▲7500K
AVPL/SJC ĐN 113,000 ▲7500K 115,500 ▲7500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,030 ▲730K 11,260 ▲700K
Nguyên liệu 999 - HN 11,020 ▲730K 11,250 ▲700K
Cập nhật: 16/04/2025 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 110.500 ▲7700K 113.600 ▲7600K
TPHCM - SJC 113.000 ▲7500K 115.500 ▲7500K
Hà Nội - PNJ 110.500 ▲7700K 113.600 ▲7600K
Hà Nội - SJC 113.000 ▲7500K 115.500 ▲7500K
Đà Nẵng - PNJ 110.500 ▲7700K 113.600 ▲7600K
Đà Nẵng - SJC 113.000 ▲7500K 115.500 ▲7500K
Miền Tây - PNJ 110.500 ▲7700K 113.600 ▲7600K
Miền Tây - SJC 113.000 ▲7500K 115.500 ▲7500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 110.500 ▲7700K 113.600 ▲7600K
Giá vàng nữ trang - SJC 113.000 ▲7500K 115.500 ▲7500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 110.500 ▲7700K
Giá vàng nữ trang - SJC 113.000 ▲7500K 115.500 ▲7500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 110.500 ▲7700K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 110.500 ▲7700K 113.600 ▲7600K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 110.500 ▲7700K 113.600 ▲7600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 ▲7700K 113.000 ▲7700K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 ▲7690K 112.890 ▲7690K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 ▲7640K 112.200 ▲7640K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 ▲7620K 111.970 ▲7620K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 82.400 ▲5770K 84.900 ▲5770K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 63.760 ▲4510K 66.260 ▲4510K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 44.660 ▲3200K 47.160 ▲3200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 ▲7050K 103.610 ▲7050K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 66.580 ▲4700K 69.080 ▲4700K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 71.100 ▲5000K 73.600 ▲5000K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 74.490 ▲5240K 76.990 ▲5240K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 40.030 ▲2890K 42.530 ▲2890K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 34.940 ▲2540K 37.440 ▲2540K
Cập nhật: 16/04/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,820 ▲670K 11,340 ▲700K
Trang sức 99.9 10,810 ▲670K 11,330 ▲700K
NL 99.99 10,820 ▲670K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▲670K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 ▲730K 11,350 ▲700K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 ▲730K 11,350 ▲700K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 ▲730K 11,350 ▲700K
Miếng SJC Thái Bình 11,300 ▲750K 11,550 ▲750K
Miếng SJC Nghệ An 11,300 ▲750K 11,550 ▲750K
Miếng SJC Hà Nội 11,300 ▲750K 11,550 ▲750K
Cập nhật: 16/04/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 15941 16207 16788
CAD 18048 18323 18943
CHF 30970 31347 31998
CNY 0 3358 3600
EUR 28733 29001 30034
GBP 33494 33881 34824
HKD 0 3200 3402
JPY 174 178 184
KRW 0 0 18
NZD 0 14968 15559
SGD 19127 19406 19932
THB 693 756 810
USD (1,2) 25581 0 0
USD (5,10,20) 25619 0 0
USD (50,100) 25646 25680 26035
Cập nhật: 16/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,660 25,660 26,020
USD(1-2-5) 24,634 - -
USD(10-20) 24,634 - -
GBP 33,836 33,927 34,840
HKD 3,271 3,281 3,381
CHF 31,066 31,162 32,021
JPY 177.26 177.58 185.51
THB 740.52 749.66 802.13
AUD 16,236 16,295 16,737
CAD 18,322 18,381 18,875
SGD 19,322 19,383 20,000
SEK - 2,589 2,680
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,860 3,994
NOK - 2,391 2,479
CNY - 3,495 3,590
RUB - - -
NZD 14,966 15,105 15,547
KRW 16.87 - 18.9
EUR 28,864 28,887 30,119
TWD 718.68 - 870.1
MYR 5,471.25 - 6,170.82
SAR - 6,770.4 7,126.84
KWD - 82,006 87,201
XAU - - 109,800
Cập nhật: 16/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,670 25,690 26,030
EUR 28,770 28,886 29,971
GBP 33,685 33,820 34,788
HKD 3,268 3,281 3,387
CHF 31,119 31,244 32,158
JPY 177.07 177.78 185.20
AUD 16,091 16,156 16,683
SGD 19,319 19,397 19,924
THB 755 758 792
CAD 18,226 18,299 18,809
NZD 15,041 15,548
KRW 17.32 19.09
Cập nhật: 16/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25660 25660 26020
AUD 16107 16207 16773
CAD 18221 18321 18875
CHF 31197 31227 32116
CNY 0 3501.3 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 28899 28999 29872
GBP 33777 33827 34937
HKD 0 3320 0
JPY 177.86 178.36 184.91
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15074 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19275 19405 20134
THB 0 721.7 0
TWD 0 770 0
XAU 11300000 11300000 11550000
XBJ 9900000 9900000 11800000
Cập nhật: 16/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,670 25,720 25,990
USD20 25,670 25,720 25,990
USD1 25,670 25,720 25,990
AUD 16,098 16,248 17,321
EUR 29,103 29,253 30,426
CAD 18,154 18,254 19,571
SGD 19,362 19,512 19,992
JPY 178.7 180.2 184.82
GBP 33,903 34,053 34,885
XAU 11,138,000 0 11,392,000
CNY 0 3,378 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 16/04/2025 23:00