VEPR dự báo tăng trưởng kinh tế quý II sẽ giảm

07:00 | 12/04/2019

77 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chiều ngày 11/04/2019 tại khách sạn Sheraton Hà Nội, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã tổ chức Tọa đàm "Công bố Báo cáo Kinh tế Vĩ mô Quý I năm 2019". Các chuyên gia tham dự đã phân tích và thống nhất cho rằng tăng trưởng kinh tế Việt Nam quý II sẽ giảm chỉ còn khoảng 6,32%.

Buổi tọa đàm có sự tham gia của PGS.TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách cùng các chuyên gia gồm: TS. Nguyễn Trí Hiếu; TS. Phạm Văn Đại và đại diện các cơ quan báo chí.

vepr du bao tang truong kinh te quy ii se giam
Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành phát biểu khai mạc buổi tọa đàm.

Mở đầu toạ đàm, PGS.TS. Nguyễn Đức Thành đã có bài phát biểu chào đón các khách mời tham dự tọa đàm. Ông đánh giá cao những nỗ lực mà đội ngũ VEPR đã dành để xây dựng các số báo cáo Kinh tế Quý trong thời gian qua, cũng như bày tỏ hi vọng vào một tình hình kinh tế Việt Nam tiếp tục khởi sắc trong các quý tiếp theo của năm 2019.

Thay mặt nhóm nghiên cứu, Tiến sĩ Phạm Thế Anh phân tích một số nét chính về kinh tế quốc tế và kinh tế Việt Nam trong 3 tháng qua. Tiến sĩ Phạm Thế Anh chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế Việt Nam Quý 1/2019 đạt mức 6,79% (theo số liệu của Tổng cục Thống kê - TCTK) chứng tỏ đà tăng trưởng có phần giảm sút trong năm 2019.

Trong đó, khu vực dịch vụ tăng trưởng ở mức 6,5% trong Quý 1, thấp hơn so với cùng kỳ năm trước ở mức 6,7%. Bán buôn và bán lẻ với mức tăng trưởng 7,82% tiếp tục là ngành đóng góp nhiều nhất vào tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế (0,95 điểm phần trăm). Ngoài ra, dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 7,60%, hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,22% và hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 4,75%.

Lượng khách quốc tế tới Việt Nam cũng tăng đáng kể với trên 4,5 triệu lượt khách, tăng 7%. Trong đó, các thị trường hàng đầu đều tăng trưởng tích cực về lượt khách du lịch, bao gồm Hàn Quốc (24,1%), Nhật Bản (8,3%), Đài Loan (26%) và Thái Lan (tăng 49,3%).

vepr du bao tang truong kinh te quy ii se giam
Tiến sĩ Phạm Thế Anh thay mặt nhóm nghiên cứu công bố báo cáo.

Theo Tiến sĩ Phạm Thế Anh, trong Quý I năm 2019, ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng trưởng khá ảm đạm, chỉ đạt 2,68%. Một số nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng trên như đang vào vụ thu hoạch lúa Đông Xuân, lượng cung gạo trên thị trường tăng làm giá gạo giảm, cùng với việc dịch tả lợn châu Phi xảy ra gây ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi.

Thuỷ sản tiếp tục là điểm sáng của khu vực này với mức tăng cao nhất của Quý 1 trong 9 năm qua, đạt 5,1%. Do trong những tháng đầu năm, thời tiết tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác biển, chi phí hoạt động khai thác ổn định, nhu cầu tiêu thụ hải sản của người dân tăng tạo động lực cho ngư dân ra khơi bám biển.

vepr du bao tang truong kinh te quy ii se giam
Toàn cảnh buổi tọa đàm.

Trong khi đó, khu vực công nghiệp và xây dựng có mức tăng trưởng 8,63% mặc dù thấp hơn mức 10,08% của cùng kỳ 2018 nhưng vẫn có đóng góp cao nhất vào tăng trưởng kinh tế.

Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng chính của khu vực này với mức tăng cao 12,35%, nhưng thấp hơn Quý 1/2018 (13,56%). Đồng thời, ngành khai khoáng lại tăng trưởng âm với mức 2,2 %.

Các chỉ báo sản xuất công nghiệp cũng cho thấy tốc độ tăng trưởng chững lại. Tiến sĩ Phạm Thế Anh phân tích thêm, mặc dù chỉ số sản xuất công nghiệp (IPI) tăng 9,2%, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8%, nhưng cả hai chỉ số này đều thấp hơn so với mức tăng của Quý 1/2018.

Cùng với đó, tính từ đầu năm đến hết Quý 1/2019, các chỉ số sản xuất, tiêu thụ đều có dấu hiệu giảm đáng kể, trong đó, chỉ số tồn kho tăng cao (chỉ số tồn kho bình quân đạt mức 15,6%). Điều đó tiềm ẩn nguy cơ đình trệ sản xuất tạm thời.

Trong bối cảnh tăng trưởng GDP ở mức cao, chỉ số quản trị nhà mua hàng (PMI) trong Quý 1/2019 lại có sự sụt giảm so với tháng Mười Hai. Chỉ số này giảm từ 53,8 điểm xuống lần lượt còn 51,9, 51,2 và 51,9 điểm trong ba tháng đầu năm, thể hiện tốc độ mở rộng chậm ở khu vực sản xuất.

Tiến sĩ Phạm Thế Anh viện dẫn khảo sát do TCTK thực hiện về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy sự lạc quan của doanh nghiệp trong Quý 1.

Trong đó, 33,7% số doanh nghiệp tham gia khảo sát đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh Quý 1 tốt hơn so với Quý 4 năm trước và 40,5% cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. 54,6% doanh nghiệp dự đoán tình hình kinh doanh Quý 2 tốt hơn Quý 1, trong khi chỉ có 10,6% là dự báo khó khăn hơn.

Sau khi các nhà báo đặt câu hỏi, các chuyên gia tham gia tọa đàm đã thảo luận và cùng cho rằng với một loạt các dịch vụ, mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, điện, dịch vụ y tế sẽ là tác nhân gây gia tăng lạm phát, đồng thời biên độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng cũng tăng sẽ gây ảnh hưởng sâu đến tăng trưởng kinh tế.

Theo Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, các mặt hàng thiết yếu không chỉ trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống người dân mà đối với các doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất kinh doanh, chắc chắn lợi nhuận của các doanh nghiệp sẽ giảm, giá thành hàng loạt các ngành khác như giao thông vận tải, kho bãi, nhân công… cũng sẽ tăng tương ứng.

Ảnh hưởng của việc cùng lúc tăng giá các mặt hàng thiết yếu là do sự kìm hãm của Chính phủ trong năm 2018. Đây không phải là cách tốt nhất để kiểm soát nền kinh tế bởi sẽ để lại ảnh hưởng lâu dài đối với sự tăng trưởng kinh tế đất nước, Phó giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành nhấn mạnh.

Trong các buổi công bố về Báo cáo Kinh tế Vĩ mô hàng Quý , Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) luôn có những phản biện sắc bén và kịp thời về những vấn đề đang đặt ra cho kinh tế Việt Nam. Đặc điểm khác biệt của các cuộc Tọa đàm này là đối tượng tham dự sẽ ưu tiên cho các nhà báo có ảnh hưởng trong lĩnh vực kinh tế, với mục đích thông tin tốt nhất tới công chúng, chứ không chỉ gói gọn trong nhóm chuyên gia.

Thành Công

vepr du bao tang truong kinh te quy ii se giam

Tăng trưởng GDP 2019 có thể vượt kế hoạch Quốc hội thông qua
vepr du bao tang truong kinh te quy ii se giam

VEPR: Kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 6,9% trong năm 2019
vepr du bao tang truong kinh te quy ii se giam

Thị trường căn hộ suy giảm, bất động sản ảm đạm?
vepr du bao tang truong kinh te quy ii se giam

VEPR: Số doanh nghiệp ngừng hoạt động tăng bất thường, số việc làm tạo mới giảm
vepr du bao tang truong kinh te quy ii se giam

Kinh tế Việt Nam "Trên đường gập ghềnh tới tương lai"

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,820 ▲50K 11,340
Trang sức 99.9 10,810 ▲50K 11,330
NL 99.99 10,820 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 ▲50K 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 19:00