VEPR: Kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 6,9% trong năm 2019

17:40 | 10/01/2019

272 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Sáng ngày 10/1, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức Tọa đàm "Công bố Báo cáo kinh tế vĩ mô quý IV và cả năm 2018". Chuỗi Báo cáo kinh tế vĩ mô hàng quý được VEPR thực hiện dưới sự hỗ trợ của Viện Konrad-Adenauer (KAS).

Tham dự tọa đàm có Tiến sĩ Stefan Kaufmann, Nghị sĩ Quốc hội Đức; ông Peter Girke, đại diện Viện Konrad-Adenauer Stiftung (KAS) Việt Nam; các chuyên gia kinh tế Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, bà Phạm Chi Lan và Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách cùng đại diện các đại sứ quán Anh, Singapore, Hàn Quốc và Ấn Độ.

vepr du bao kinh te viet nam se tang truong khoang 69 trong nam 2019
Ông Peter Girke, đại diện Viện Konrad-Adenauer Stiftung (KAS) Việt Nam khai mạc buổi tọa đàm.

Công bố “Báo cáo kinh tế vĩ mô quý IV và cả năm 2018”, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành đã thay mặt nhóm nghiên cứu đưa ra một số nhận định có tính tổng quát và dự báo về kinh tế thế giới cũng như Việt Nam.

Năm 2018 chứng kiến sự phục hồi thiếu đồng đều lẫn chắc chắn của kinh tế thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế đã liên tục điều chỉnh các dự báo của mình theo chiều hướng kém tích cực hơn. Những uớc tính mới nhất cho thấy tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2018 là vào khoảng 3,7%. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này diễn ra không đồng đều giữa các nhóm và thậm chí giữa các nước trong cùng nhóm.

Những quan ngại về kinh tế Trung Quốc ngày một cao hơn khi tăng trưởng thương mại và đầu tư của nước này được dự kiến tiếp tục sụt giảm do căng thẳng thương mại với Mỹ trong thời gian tới. Chỉ số PMI của Trung Quốc đã giảm xuống dưới mốc 50. Ngân hàng trung ương nước này đã bắt đầu phải thực hiện nới lỏng tiền tệ để kích thích kinh tế trong nước. Mặc dù còn dư địa chính sách nhưng tất cả đều đang trên xu hướng xấu đi.

Bên cạnh tiêu điểm là tốc độ tăng trưởng bấp bênh và cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, kinh tế thế giới trong năm 2018 còn chứng kiến một sự kiện đáng chú ý khác, đó là tiến trình “bình thường hóa” chính sách tiền tệ đang và sẽ tiếp tục diễn ra ở Mỹ và châu Âu sau những chương trình nới lỏng định lượng khổng lồ trong quá khứ. Trong khi đó, nhiều khả năng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản sẽ tiếp tục chương trình siêu nới lỏng định lượng do lạm phát còn ở mức thấp.

Kinh tế Việt Nam năm 2018 tăng trưởng cao nhất 10 năm, ở mức 7,08%. Tăng trưởng tới từ sự phục hồi vững chắc của khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ, cùng với sự bứt phá của ngành công nghiệp chế tác. FDI tiếp tục là khu vực đóng góp chính vào tăng trưởng thông qua xuất khẩu. Khu vực này trong năm 2018 xuất siêu khoảng 32,81 tỷ USD (bằng gần 14% GDP).

vepr du bao kinh te viet nam se tang truong khoang 69 trong nam 2019
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành công bố Báo cáo kinh tế vĩ mô quý IV và cả năm 2018 của VERP.

Về tình hình các doanh nghiệp, trong khi số doanh nghiệp thành lập mới và số việc làm tạo mới không có nhiều biến chuyển so với năm 2017, số tạm ngừng hoạt động trong năm 2018 cao bất thường, đặt ra câu hỏi đó là sự dịch chuyển cấu trúc kinh tế hay là những rủi ro nền tảng của nền kinh tế.

Lạm phát quý IV/2018 có dấu hiệu giảm nhờ sự quay đầu đột ngột của giá năng lượng. Lạm phát bình quân (3,54%) đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Trong bối cảnh giá hàng hóa thế giới trồi trụt thất thường, cùng với việc áp kịch trần thuế bảo vệ môi trường lên xăng dầu từ 1/1/2019, NHNN vẫn cần theo dõi rủi ro lạm phát trong thời gian tới để có những biện pháp ứng phó phù hợp.

Cuộc chiến thương mại Mỹ -Trung đang tạo tác động tích cực tới nền kinh tế Việt Nam. Nếu có chính sách tỷ giá phù hợp, thương mại Việt Nam hoàn toàn có thể hưởng lợi nhiều hơn từ cuộc chiến này, bên cạnh việc tiếp nhận nhiều đơn hàng chuyển dịch từ Trung Quốc. Về tác động lâu dài khi chuỗi cung ứng sản xuất dịch chuyển từ Trung Quốc tới các nước láng giềng, Việt Nam cần cải thiện môi trường thể chế, kinh doanh và chất lượng lao động để đón đầu cơ hội này.

Thách thức cho Việt Nam cũng không nhỏ khi cơ sở hạ tầng chưa sẵn sàng đón nhận làn sóng chuyển dịch sản xuất, cũng như bất lợi về lợi thế quy mô như Trung Quốc, Ấn Độ.

vepr du bao kinh te viet nam se tang truong khoang 69 trong nam 2019
Tiến sĩ Stefan Kaufmann, Nghị sĩ Quốc hội Đức phát biểu tại buổi tọa đàm.

Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành nhận định: “Vấn đề lớn nhất của Việt Nam nằm ở chính sách tài khóa”.

Theo phân tích của VEPR, trong nhiều năm gần đây, bức tranh ngân sách và nợ công không được cải thiện. Quy mô nợ công lớn và sát ngưỡng cho phép (65% GDP) khiến gánh nặng chi trả nợ lãi ngày càng cao. Nguồn thu ngân sách vẫn chỉ đủ hoặc dư thừa không đáng kể sau khi thực hiện tiêu dùng của nhà nước, không có tiết kiệm (phải vay nợ) để thực hiện đầu tư phát triển. Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/GDP có giảm đôi chút nhưng lại chủ yếu là nhờ tư nhân hóa nhiều dịch vụ công.

Đặc biệt, khối tài sản nhà nước ngày càng giảm thông qua bán vốn DNNN hoặc bán các tài sản nhà nước khác nhưng thâm hụt ngân sách lại không được thu hẹp (vẫn khoảng 4% chưa kể chi trả nợ gốc). Điều này có nghĩa là Việt Nam cũng thiếu “đệm tài khóa” để đối phó với các cú sốc bên ngoài (nếu có) như nhiều quốc gia khác. Môi trường kinh doanh theo đó cũng khó được cải thiện khi doanh nghiệp và người dân luôn phải đối mặt với nỗi lo tăng thuế phí để bù đắp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ.

Trước tiến trình “bình thường hóa” chính sách tiền tệ từ các nước phát triển và nguy cơ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung leo thang trong năm 2019, Việt Nam một mặt nên tiếp tục tiến trình cải thiện điều kiện thể chế - kinh tế trong nước, cải cách tài khóa và thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN, mặt khác nên tập trung chuẩn bị các điều kiện về tài khóa, tiền tệ và tỷ giá để sẵn sàng đối mặt với những bất ổn từ kinh tế thế giới.

Phát biểu tại buổi tọa đàm, Tiến sĩ Stefan Kaufmann, Nghị sĩ Quốc hội Đức đã đánh giá rất cao về sự phát triển kinh tế và những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong năm 2018. Tiến sĩ Stefan Kaufmann đặc biệt nhấn mạnh về chất lượng giáo dục, hệ thống nghiên cứu của các trường đại học, các viện nghiên cứu của Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ đến sự phát triển kinh tế cũng như sự hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Đức. Tiến sĩ Stefan Kaufmann khẳng định mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Đức và Việt Nam luôn bền vững dù gần đây có một số vấn đề xảy ra ảnh hưởng đến quan hệ giữa hai nước.

vepr du bao kinh te viet nam se tang truong khoang 69 trong nam 2019
Toàn cảnh buổi tọa đàm.

Có thể thấy rằng, trong năm 2019, mặc dù VEPR đưa ra viễn cảnh dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục đà tăng trưởng kinh tế khá cao (6,9%) nhưng để tận dụng cơ hội đến từ cuộc dịch chuyển đầu tư, đón đầu được dòng chảy công nghệ mới trên thế giới đòi hỏi Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa trong việc lành mạnh hóa môi trường kinh doanh, có những hành động thiết thực hơn nữa cải thiện cả về công nghệ lẫn nguồn nhân lực cho doanh nghiệp.

Thành Công

vepr du bao kinh te viet nam se tang truong khoang 69 trong nam 2019 Kinh tế Việt Nam tiến thoái lưỡng nan vì căng thẳng Mỹ - Trung
vepr du bao kinh te viet nam se tang truong khoang 69 trong nam 2019 WEF: Việt Nam là nền kinh tế cạnh tranh thứ 77 toàn cầu
vepr du bao kinh te viet nam se tang truong khoang 69 trong nam 2019 Kinh tế Việt Nam năm tới ra sao giữa căng thẳng Mỹ - Trung?
vepr du bao kinh te viet nam se tang truong khoang 69 trong nam 2019 Standard Chartered: Kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng nhanh nhất ASEAN
vepr du bao kinh te viet nam se tang truong khoang 69 trong nam 2019 Kinh tế Việt Nam: Triển vọng tươi sáng
vepr du bao kinh te viet nam se tang truong khoang 69 trong nam 2019 ADB dự báo kinh tế Việt Nam vẫn sẽ giữ đà tăng trưởng mạnh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,000 122,000
AVPL/SJC HCM 120,000 122,000
AVPL/SJC ĐN 120,000 122,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,170 11,450
Nguyên liệu 999 - HN 11,160 11,440
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.600
TPHCM - SJC 120.000 122.000
Hà Nội - PNJ 114.000 116.600
Hà Nội - SJC 120.000 122.000
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.600
Đà Nẵng - SJC 120.000 122.000
Miền Tây - PNJ 114.000 116.600
Miền Tây - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 116.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 115.670
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 115.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 87.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 68.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 48.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 106.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 71.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 75.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 79.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 43.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 38.600
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,290 11,740
Trang sức 99.9 11,280 11,730
NL 99.99 11,100
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,500 11,800
Miếng SJC Thái Bình 12,000 12,200
Miếng SJC Nghệ An 12,000 12,200
Miếng SJC Hà Nội 12,000 12,200
Cập nhật: 11/05/2025 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16118 16385 16969
CAD 18096 18371 18995
CHF 30572 30948 31621
CNY 0 3358 3600
EUR 28572 28839 29883
GBP 33740 34129 35080
HKD 0 3207 3411
JPY 171 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15024 15625
SGD 19454 19734 20278
THB 703 766 820
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26155
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 33,951 34,043 34,943
HKD 3,282 3,292 3,391
CHF 30,810 30,906 31,767
JPY 175.11 175.43 183.25
THB 749.74 759 812.07
AUD 16,397 16,456 16,901
CAD 18,405 18,464 18,964
SGD 19,652 19,713 20,338
SEK - 2,632 2,724
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,849 3,981
NOK - 2,452 2,538
CNY - 3,548 3,644
RUB - - -
NZD 14,981 15,120 15,554
KRW 17.19 17.93 19.27
EUR 28,755 28,778 30,006
TWD 777.95 - 941.86
MYR 5,633.75 - 6,359.66
SAR - 6,810.25 7,168.24
KWD - 82,426 87,642
XAU - - -
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,557 28,672 29,776
GBP 33,746 33,882 34,851
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 30,669 30,792 31,690
JPY 173.90 174.60 181.74
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,615 19,694 20,232
THB 763 766 800
CAD 18,311 18,385 18,897
NZD 15,042 15,549
KRW 17.63 19.42
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16257 16357 16925
CAD 18304 18404 18957
CHF 30785 30815 31712
CNY 0 3549.6 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28845 28945 29720
GBP 33935 33985 35098
HKD 0 3355 0
JPY 175.09 176.09 182.64
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15080 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19610 19740 20471
THB 0 730.9 0
TWD 0 845 0
XAU 12000000 12000000 12150000
XBJ 12000000 12000000 12150000
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,170
USD20 25,780 25,830 26,170
USD1 25,780 25,830 26,170
AUD 16,311 16,461 17,531
EUR 28,899 29,049 30,224
CAD 18,245 18,345 19,662
SGD 19,685 19,835 20,311
JPY 175.65 177.15 181.84
GBP 34,012 34,162 34,952
XAU 11,649,000 0 12,051,000
CNY 0 3,432 0
THB 0 766 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 11/05/2025 12:00