Thuế tự vệ không phải là phép màu!

05:46 | 05/05/2016

644 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trong hội nhập kinh tế quốc tế, các biện pháp phòng vệ thương mại, trợ giá, tự vệ... luôn là một trong những công cụ quan trọng được các quốc gia, vùng lãnh thổ áp dụng nhằm bảo hộ, chống tác động tiêu cực của hàng hóa nước ngoài với hoạt động sản xuất trong nước. Việc áp dụng các biện pháp này cũng được xem là điều kiện để các doanh nghiệp sản xuất trong nước tái cấu trúc, nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, thực tế này lại không được các doanh nghiệp ngành thép nhìn nhận mà lại xem đó là “phép màu” để trục lợi!

Nghịch lý thời hội nhập

Theo Quyết định 862 của Bộ Công Thương, từ ngày 22-3, Việt Nam sẽ áp dụng mức thuế 23,3% dưới dạng thuế nhập khẩu bổ sung và 14,2% đối với thép dài Trung Quốc. Và về mặt nguyên tắc thì sau khi có quyết định trên, các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải tập trung tái cấu trúc, nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm mà công ty, doanh nghiệp của mình làm ra. Nhưng thực tế hơn 1 tháng qua đã cho thấy điều hoàn toàn theo chiều ngược lại, chỉ 2 ngày sau khi Quyết định 862 được công bố, giá thép trong nước đã bất ngờ tăng mạnh, từ mức khoảng 10,3-10,7 triệu đồng/tấn lên mức 12,6-13,5 triệu đồng/tấn. Điều này lập tức dấy lên hoài nghi về việc các doanh nghiệp thép đã “té nước theo mưa”, lợi dụng sự bảo hộ của chính sách trong nước để trục lợi bởi yếu tố thiếu hụt nguồn cung hoàn toàn bị loại bỏ khi sản xuất thép vốn đang trong cảnh tồn kho, ế ẩm cao.

tin nhap 20160504144630
Một góc xưởng sản xuất của Công ty TNHH Thắng Lợi

Và mới đây, trong công bố mới nhất của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), những hoài nghi này đã được làm sáng tỏ hoàn toàn. Theo đó, trong tháng 3, các doanh nghiệp ngành thép đã tiêu thụ được 962 ngàn tấn - mức tiêu thụ cao nhất trong lịch sử ngành thép. Trong khi đó, sản lượng thép sản xuất từ tháng 12-2015 đến hết tháng 2-2016 được ghi nhận là 1,7 triệu tấn. Mặc dù nguồn cung vẫn đảm bảo như vậy nhưng giá thép cuối tháng 3 vẫn được VSA ghi nhận tăng tới 30% so với đầu tháng.

Nhìn nhận câu chuyện này, ông Phùng Đình Thông - Giám đốc Công ty TNHH Thắng Lợi, doanh nghiệp chuyên đúc thép hợp kim ở Khu công nghiệp An Xá (TP Nam Định, tỉnh Nam Định) đã nhấn mạnh, đây là dấu hiệu bất thường, khó hiểu. Theo ông Thông thì việc giá thép phản ứng quá “nhạy” như vậy là hoàn toàn không hợp lý bởi tại thời điểm Quyết định 862 được công bố, các doanh nghiệp sản xuất thép vẫn đang nhập nguyên liệu theo mức thuế suất cũ. Và một điều quan trọng, toàn bộ thép được bán ra trong hầu hết tháng 3 đều được sản xuất từ nguồn nguyên liệu này. Vậy nên không có lý gì mà chỉ sau 2 ngày giá thép đã tăng vọt như vậy.

“Về mặt nguyên tắc thị trường, đây là điều phi lý. Giá thành sản phẩm sẽ chỉ tăng nếu nguyên, phụ liệu đầu vào tăng, làm tăng chi phí sản xuất. Nhưng nếu đầu vào chưa tăng mà giá sản phẩm tăng thì chỉ có thể giải thích là doanh nghiệp sản xuất đã gia tăng phần lợi nhuận trong giá thành sản phẩm” - ông Thông nêu quan điểm.

Không những không nắm bắt được cơ hội để tự tái cấu trúc lại bản thân, theo nhiều chuyên gia trong ngành thép thì việc Bộ Công Thương áp dụng các biện pháp tự vệ đối với phôi thép còn đặt các doanh nghiệp sản xuất thép vào một cuộc sàng lọc, cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Điều này được đại diện Công ty Chứng khoán Bảo Việt chia sẻ rằng: Việc áp thuế này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp sản xuất thép nhưng đã tự chủ được phôi thép như Tập đoàn Hòa Phát, Thép Việt - Ý, Gang thép Thái Nguyên... Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, nó cũng sẽ khiến các doanh nghiệp đang phải nhập khẩu phôi thép chịu thiệt hại khi thuế nhập khẩu tăng.

Dưới một góc nhìn khác, những nghịch lý trên của ngành thép theo TS Nguyễn Minh Phong lại đang là điều kiện để cho các sản phẩm thép nhập khẩu chiếm lĩnh thị trường trong nước. Bởi việc sử dụng công cụ áp thuế chống bán phá giá là nhằm chống cạnh tranh không lành mạnh theo nguyên tắc thị trường, bảo vệ sản xuất nội địa sẽ mất ý nghĩa, nếu không nói là phản tác dụng khi vừa không thúc đẩy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nội, lại vừa làm tăng giá và nhất là làm tăng tiêu thụ hàng ngoại nhập trên thị trường trong nước.

Để thị trường điều tiết

Từ nhiều năm nay, chuyện ngành thép kêu khó chẳng phải chuyện gì mới lạ đối với giới đầu tư, dư luận xã hội. Họ hết kêu về giá điện thì lại kêu về chính sách thuế, rồi thì bị cạnh tranh bởi thép nhập khẩu... Nhưng cũng có một thực tế là dù “ôn nghèo kể khổ” nhiều như vậy nhưng hầu hết các doanh nghiệp sản xuất thép đều có lãi, thậm chí là lãi khủng. Đây tiếp tục là một nghịch lý cần phải được các cơ quan quản lý cũng như chính doanh nghiệp thép nhìn nhận, bởi chúng ta không thể sống mãi trong sự bao bọc của chính sách và chúng ta cũng không thể mãi áp dụng các biện pháp tự vệ, bảo hộ trong nền kinh tế hội nhập được.

Nói như vậy để thấy rằng, diễn biến giá thép trong tháng 3 là một nghịch lý trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay. Và rõ ràng, với những phân tích như trên thì việc các doanh nghiệp sản xuất thép đang tìm cách trục lợi trên chính sách bảo hộ, xem chính sách tự vệ là phép màu cứu doanh nghiệp mình vượt qua khó khăn lại đang đẩy nhiều doanh nghiệp đi vào cửa tử!

Với thực tế trên, ông Phùng Đình Thông cho rằng, chúng ta đang ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế thì cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc thị trường. Doanh nghiệp nào có năng lực, có trình độ quản trị, giá thành sản phẩm cạnh tranh thì tồn tại, phát triển. Doanh nghiệp nào năng lực yếu, hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh kém thì bị loại bỏ.

“Việc Bộ Công Thương ban hành chính sách thuế tự vệ cho hoạt động sản xuất thép trong nước chỉ mang tính tạm thời, không giải quyết được tận gốc vấn đề. Và vấn đề với ngành thép hiện nay chính là vấn đề quản trị, vấn đề công nghệ, hiệu quả hoạt động. Nếu chừng nào chưa giải quyết được những vấn đề này thì ngành thép còn gặp khó khăn, còn phải chịu sự lép vế trước sự cạnh tranh của các sản phẩm thép nhập ngoại” - ông Thông nói.

Đồng với quan điểm này, Tổng giám đốc Công ty Liên doanh sản xuất Thép Vinausteel (Thép Việt Úc) Phan Đào Vũ khi chia sẻ với báo chí cho biết, trong cuộc chơi toàn cầu thì “nước lên thuyền lên” và “nước xuống thuyền cũng phải xuống”. Việc sản xuất phôi của các doanh nghiệp có hiệu quả khác nhau nên giá thành sản xuất cũng khác nhau. Khi giá nguyên liệu phôi thép trên thế giới giảm, những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và có lãi thì lợi nhuận sẽ thu hẹp lại. Còn doanh nghiệp kém hiệu quả thì “nước xuống” nhưng thuyền không xuống, dẫn đến mắc cạn và thuế tự vệ là để cho “nước dâng lên” nhằm cứu những doanh nghiệp này. Tuy nhiên, điều này cũng sẽ làm tăng sức cạnh tranh cho những doanh nghiệp hiệu quả và tạo sức ép ngay lập tức đối với các doanh nghiệp khác.

Vậy nên, ông Phan Đào Vũ cũng cho rằng, trong thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay, khi cái đích của hoạt động thương mại tự do là thuế về 0% thì ngành thép cũng phải tuân thủ các nguyên tắc của sân chơi đó. Và trong điều kiện khó khăn thì doanh nghiệp cần phải có sự điều chỉnh chiến lược sao cho hiệu quả chứ không thể vì kém hiệu quả của một số doanh nghiệp mà cản trở quá trình hội nhập, cản trở doanh nghiệp và người dân hưởng lợi từ hội nhập được.

 

Hà Thanh

Năng lượng Mới 520

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 12:00