Nghề nuôi biển Việt Nam có thể thu đến 15 tỷ USD mỗi năm

06:44 | 15/02/2023

|
Các chuyên gia cho rằng nếu tháo gỡ được điểm nghẽn chính sách, nghề nuôi biển thì Việt Nam có thể đạt doanh thu từ 10 đến 15 tỷ USD là chuyện trong tầm tay.

Nghề nuôi biển, ngư dân đang tự làm tự chịu

Ngày 14/2, tại Bình Định diễn ra Hội thảo "Nghề nuôi biển: chuyển đổi từ truyền thống sang công nghiệp" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và UBND tỉnh này phối hợp cùng một số đơn vị đồng tổ chức.

Tại hội thảo, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực thủy sản, nuôi biển và doanh nghiệp đã chỉ ra những thách thức với nghề nuôi biển tại Việt Nam, trong đó vấn đề làm nóng nghị trường vẫn là tháo gỡ điểm nghẽn về chính sách.

Nghề nuôi biển Việt Nam có thể thu đến 15 tỷ USD mỗi năm - 1
Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Trần Đình Luân trao đổi tại hội thảo

Theo ông Trần Công Khôi, Phó vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thủy sản (Tổng cục Thủy sản), tổng diện tích tiềm năng nuôi biển ở nước ta khoảng 500.000ha với các đối tượng nuôi biển phong phú gồm các nhóm cá biển, nhóm nhuyễn thể, nhóm rong tảo biển.

Năm 2023, ngành thủy sản đặt mục tiêu diện tích nuôi biển cả nước đạt 85.000ha, với 10 triệu m3 lồng nuôi, sản lượng ước đạt 850.000 tấn.

Ông Khôi cho hay hiện có khoảng 7.400 cơ sở nuôi biển với gần 249.000 lồng/bè, trong đó 6.500 cơ sở gần bờ, nuôi xa bờ còn ít. Trong khi đó, các mô hình nuôi biển công nghiệp đòi hỏi vốn lớn nên hiện chỉ có một số ít doanh nghiệp đầu tư.

Nghề nuôi biển Việt Nam có thể thu đến 15 tỷ USD mỗi năm - 2
PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam

"Nghề nuôi biển còn tự phát, thiếu quy hoạch, cơ sở hạ tầng hạn chế, trình độ kỹ thuật sản xuất chưa cao nên sản xuất kém hiệu quả, ô nhiễm môi trường, thiếu bền vững, dịch bệnh, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, bão gió; công nghệ lồng nuôi chưa đáp ứng; lao động tham gia nuôi cá lồng trên biển thiếu số lượng và về khoa học kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm trong vận hành", ông Khôi nói.

PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, cho rằng, có đến 99,9% mô hình nuôi biển tại Việt Nam là quy mô hộ gia đình, tự phát, manh mún, thiếu chuỗi liên kết. Vì vậy, ngành nuôi biển cần sớm chuyển sang nuôi công nghiệp để tăng sức cạnh tranh, giảm ô nhiễm môi trường.

Nghề nuôi biển Việt Nam có thể thu đến 15 tỷ USD mỗi năm - 3
PGS.TS Võ Sĩ Tuấn, thành viên Hội đồng tư vấn khoa học và công nghệ Việt Nam, nguyên viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang

Trong khi đó, PGS.TS Võ Sĩ Tuấn, Thành viên Hội đồng tư vấn khoa học và công nghệ Việt Nam, nguyên viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang, cho rằng nuôi biển truyền thống thường nhỏ lẻ, manh mún, không theo quy hoạch, ô nhiễm môi trường, rủi ro cao. Như Phú Yên, chỉ một đêm ngư dân nuôi tôm hùm mất 70 tỷ đồng do thiếu nguồn oxy.

Sớm quy hoạch, giao khu vực biển lâu dài cho dân

Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, muốn doanh nghiệp, người dân đầu tư một cách bài bản thì giao khu vực biển nuôi trồng lâu dài, ít nhất 20 năm, 30 năm nếu không người dân mãi mãi nuôi lồng thủ công.

Nghề nuôi biển Việt Nam có thể thu đến 15 tỷ USD mỗi năm - 4
Dự án nuôi biển 200 triệu USD được đầu tư theo công nghệ của Mỹ triển khai tại vùng biển Khánh Hòa

"Luật thủy sản 2017 quy định thời hạn giao khu vực biển cho tổ chức, cá nhân nuôi trồng hải sản đến 30 năm, gia hạn đến 20 năm. Luật có rồi nhưng đến nay chưa được thực hiện. Các chính sách phát triển nuôi biển Việt Nam có gần như đầy đủ nhưng chưa được thực thi đồng bộ ở các địa phương", ông Dũng nói.

Ông Dũng đưa ra so sánh, Việt Nam có 1.000km2 có tiềm năng phát triển nuôi cá biển. Năng suất nuôi cá biển ở vùng nhiệt đới đạt gần 10.000-12.000 tấn/ha/năm thì Việt Nam có thể nuôi đến 10 triệu tấn cá biển.

Như cá tra, Việt Nam xuất hơn 1 triệu tấn, đã đạt doanh thu 2,5 tỷ USD. Nếu phát triển tốt tiềm năng, lợi thế thì mục tiêu đạt được từ 10-15 tỷ USD mỗi năm là chuyện trong tầm tay.

Nghề nuôi biển Việt Nam có thể thu đến 15 tỷ USD mỗi năm - 5
Các chuyên gia cho rằng cần tích hợp nuôi biển với các ngành kinh tế biển khác như du lịch, dầu khí, nhựa, điện gió, vận tải biển

Ông Dũng cũng đề nghị trong thể chế phát triển nuôi biển công nghiệp, phải coi doanh nghiệp là chủ thể. Cùng với đó là chính sách rõ ràng để thu hút doanh nghiệp vào đầu tư, tạo chuỗi sản xuất.

"Đơn giản hóa các thủ tục, có chính sách rõ ràng để thu hút doanh nghiệp vào đầu tư. Đừng bắt doanh nghiệp phải chạy ra bộ này bộ kia để xin phép. Trong phạm vi của địa phương giải quyết được thì xử lý", ông Dũng nói thêm.

Phát biểu tại hội thảo, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Trần Đình Luân ghi nhận những vướng mắc trong phát triển thủy sản nói chung, ngành nuôi biển nói riêng.

"Trong phạm vi quy định thẩm quyền, giao biển theo hải lý (từ 6 hải lý cấp tỉnh, 3 hải lý cấp huyện) để linh động phát triển các dự án nuôi biển. Trước mắt, các địa phương ven biển cần tổ chức lại sản xuất, hoạt động khai thác thủy sản ven bờ để tránh tận diệt, lãng phí tài nguyên biển. Trong đó, tổ chức lại các bãi giống, cắm mốc, giao biển cho cộng đồng, hộ gia đình và sớm thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã ven biển", ông Luân nói.

Trung tâm nuôi biển công nghiệp của cả nước

Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, các tỉnh từ Bình Định đến Ninh Thuận có điều kiện tương đồng với nhau để phát triển thành trung tâm nuôi biển công nghiệp của Việt Nam trong tương lai gần.

Mặc dù không thuận lợi như Quảng Ninh, nơi có nhiều hòn đảo tạo ra vùng nước tĩnh; tuy nhiên, với vùng biển 4 tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, ra xa bờ chỉ vài chục mét là nước sâu - điều kiện tiên quyết để phát triển nuôi biển công nghiệp thuận lợi. Vậy nên cần có liên kết vùng giữa các tỉnh này.

Theo Dân trí

Có thể thu hàng chục tỉ USD từ nghề nuôi biểnCó thể thu hàng chục tỉ USD từ nghề nuôi biển
Phấn đấu tới năm 2030 hình thành 7 cụm liên kết ngành kinh tế biểnPhấn đấu tới năm 2030 hình thành 7 cụm liên kết ngành kinh tế biển
Hợp tác quốc tế về phát triển kinh tế biển - động lực cho phát triển của các tỉnh duyên hải miền TrungHợp tác quốc tế về phát triển kinh tế biển - động lực cho phát triển của các tỉnh duyên hải miền Trung

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • novaland-16-8
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 66,350 66,950
AVPL/SJC HCM 66,400 67,000
AVPL/SJC ĐN 66,350 66,950 ▲50K
Nguyên liệu 9999 - HN 55,250 55,750
Nguyên liệu 999 - HN 55,200 55,600
AVPL/SJC Cần Thơ 66,350 66,950
Cập nhật: 28/05/2023 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 55.600 56.650
TPHCM - SJC 66.460 67.000
Hà Nội - PNJ 55.600 56.650
Hà Nội - SJC 66.460 67.000
Đà Nẵng - PNJ 55.600 56.650
Đà Nẵng - SJC 66.460 67.000
Miền Tây - PNJ 55.600 56.650
Miền Tây - SJC 66.550 67.050
Giá vàng nữ trang - Nhẫn PNJ (24K) 55.600 56.600
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 55.500 56.300
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 40.980 42.380
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 31.690 33.090
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 22.170 23.570
Cập nhật: 28/05/2023 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Đồng vàng 99.99 5,555 5,655
Vàng TT, 3A, NT Nghệ An 5,555 5,655
Vàng trang sức 99.99 5,490 5,615
Vàng trang sức 99.9 5,480 5,605
Vàng NL 99.99 5,495
Vàng miếng SJC Thái Bình 6,640 6,700
Vàng miếng SJC Nghệ An 6,640 6,700
Vàng miếng SJC Hà Nội 6,640 6,700
Vàng NT, TT, 3A Hà Nội 5,555 5,655
Vàng NT, TT Thái Bình 5,555 5,655
Cập nhật: 28/05/2023 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L 66,350 67,050
SJC 5c 66,350 67,070
SJC 2c, 1C, 5 phân 66,350 67,080
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 55,600 56,550
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.5 chỉ 55,600 56,650
Nữ Trang 99.99% 55,450 56,150
Nữ Trang 99% 54,394 55,594
Nữ Trang 68% 36,336 38,336
Nữ Trang 41.7% 21,567 23,567
Cập nhật: 28/05/2023 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 14,899.29 15,049.79 15,534.59
CAD 16,784.16 16,953.70 17,499.83
CHF 25,303.33 25,558.92 26,382.25
CNY 3,253.74 3,286.61 3,392.99
DKK - 3,322.24 3,449.90
EUR 24,541.48 24,789.38 25,915.65
GBP 28,219.39 28,504.43 29,422.65
HKD 2,922.87 2,952.39 3,047.50
INR - 283.09 294.45
JPY 163.38 165.03 172.96
KRW 15.32 17.02 18.66
KWD - 76,148.09 79,202.52
MYR - 5,023.26 5,133.48
NOK - 2,084.24 2,173.01
RUB - 278.55 308.40
SAR - 6,246.34 6,496.89
SEK - 2,128.47 2,219.12
SGD 16,923.13 17,094.07 17,644.73
THB 597.45 663.84 689.34
USD 23,290.00 23,320.00 23,660.00
Cập nhật: 28/05/2023 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 14,984 15,004 15,604
CAD 16,937 16,947 17,647
CHF 25,413 25,433 26,383
CNY - 3,254 3,394
DKK - 3,292 3,462
EUR #24,324 24,334 25,624
GBP 28,427 28,437 29,607
HKD 2,868 2,878 3,073
JPY 162.77 162.92 172.47
KRW 15.55 15.75 19.55
LAK - 0.63 1.58
NOK - 2,036 2,156
NZD 13,947 13,957 14,537
SEK - 2,097 2,232
SGD 16,805 16,815 17,615
THB 623.04 663.04 691.04
USD #23,232 23,272 23,692
Cập nhật: 28/05/2023 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 23,330 23,330 23,630
USD(1-2-5) 23,111 - -
USD(10-20) 23,283 - -
GBP 28,373 28,544 29,622
HKD 2,934 2,954 3,041
CHF 25,404 25,558 26,363
JPY 164.18 165.17 172.95
THB 641.3 647.78 707.51
AUD 14,985 15,076 15,535
CAD 16,868 16,969 17,493
SGD 17,020 17,122 17,611
SEK - 2,141 2,213
LAK - 1.02 1.4
DKK - 3,327 3,439
NOK - 2,094 2,164
CNY - 3,276 3,385
RUB - 265 340
NZD 14,013 14,097 14,439
KRW 15.86 17.53 18.99
EUR 24,735 24,802 25,917
TWD 691.15 - 835.85
MYR 4,757.93 - 5,362.21
Cập nhật: 28/05/2023 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 23,280.00 23,300.00 23,630.00
EUR 24,783.00 24,803.00 25,835.00
GBP 28,438.00 28,610.00 29,262.00
HKD 2,942.00 2,954.00 3,037.00
CHF 25,505.00 25,607.00 26,276.00
JPY 165.34 165.50 172.10
AUD 14,974.00 15,034.00 15,500.00
SGD 17,075.00 17,144.00 17,534.00
THB 658.00 661.00 693.00
CAD 16,937.00 17,005.00 17,391.00
NZD 0.00 14,012.00 14,488.00
KRW 0.00 16.94 19.52
Cập nhật: 28/05/2023 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 23.334 23.627
GBP 28.838 29.194
CHF 25.825 26.190
JPY 166,54 171,08
EUR 25.049 25.492
CAD 17.074 17.427
AUD 15.155 15.512
Cập nhật: 28/05/2023 17:00