Trước khủng hoảng Nga - Ukraine, đã từng có "châu Âu đại chiến" ở Crimea

09:48 | 28/03/2014

7,326 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Crimea (Crưm) và Sevastopol đã về với nước Nga sau cuộc trưng cầu dân ý trong tháng 3/2014. Người ta vẫn gọi đây là sự "trở về với đất mẹ", vì trong lịch sử, vùng đất này là của nước Nga, của người Nga. Đã có lúc đại chiến châu Âu diễn ra ở Crimea. Có thể nói Crimea là một phần lịch sử của nước Nga. Đó là lý do vì sao Nga đã không từ bỏ cơ hội của mình để đưa vùng đất này từ Ukraine quay trở về.

Người dân Crimea ăn mừng trong ngày sáp nhập vào Nga.

 

Căng thẳng Nga - Ukraine đã thu hút sự quan tâm của cả thế giới. Thế giới đang đứng trước ngưỡng cửa của một cuộc chiến tranh lạnh với một bên là Nga, một bên là Mỹ và Châu Âu, Ukraine. Đã có lúc người ta tưởng chiến tranh sẽ nổ ra ở Crimea như nó đã từng diễn ra trong lịch sử.

Chiến tranh Krym (Crimean War) bắt đầu từ năm 1853 và chấm dứt năm 1856, giữa hai lực lượng quân sự châu Âu, phe đồng minh gồm Đế quốc Pháp, Đế quốc Anh, Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ và Sardegna chống lại Đế quốc Nga

Cuộc chiến tranh này còn được người đương thời gọi là Chiến tranh nước Nga. Phần lớn các trận chiến xảy ra trên bán đảo Krym, những trận nhỏ hơn tại miền tây Thổ Nhĩ Kỳ và vùng biển Ban Tích.

Một trong những lý do gây ra cuộc chiến là việc chính phủ Nga hoàng bảo hộ cho các thần dân Chính Thống giáo nằm dưới ách thống trị của Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Cuộc chiến tranh tàn khốc này mở đầu với việc Thổ Nhĩ Kỳ tuyên chiến với Nga vào năm 1853, với trận đánh tại Oltenitza cùng năm đó, khi một cuộc tiến công của quân Nga bị quân Thổ Nhĩ Kỳ đập tan. Nhưng sau đó, trong trận thủy chiến Sinope hải quân Nga đánh bại hải quân Thổ Nhĩ Kỳ.

Tuy nhiên, quân Thổ Nhĩ Kỳ cũng chọc thủng được vòng vây của quân Nga ở Silistria. Sau đó Anh và Pháp lần lượt tuyên chiến với Nga.

Chiến tranh vùng Krym được xem là chiến tranh hiện đại đầu tiên trong lịch sử, trong đó kỹ thuật quân sự có phần tân tiến hơn những cuộc chiến tranh trước và thay đổi hình thức của các cuộc chiến tranh sau đó. Cuộc công kích anh dũng của Tiểu Lữ đoàn Anh Quốc nhằm vào quân Nga vào năm 1854 tuy thất bại, nhưng trở thành biểu tượng của tinh thần trách nhiệm cũng như kỷ cương cao.

Cuộc đấu tranh bảo vệ Sevastopol (1855) của quân Nga trước liên quân Anh - Thổ - pháp cũng vậy, tuy là thất bại của Quân đội Nga nhưng được xem là một chiến thắng về tinh thần của họ. Vào năm 1856, các nước Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia đã giành được chiến thắng. Quân đội Nga - đội quân tinh nhuệ nhất của châu Âu trong con mắt của Nga hoàng Nikolai I - đã đại bại. Nước Nga bị mất chủ quyền ở biển Đen - một thành quả của Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế năm xưa.

Tranh chấp vùng Đất Thánh

Sau các cuộc Cách mạng 1848 tại các nước Châu Âu, hoàng đế Nga âm mưu đeo đuổi một chính sách hung hăng hơn tại vùng Balkan. Nước Nga hy vọng trục lợi trên sự suy yếu của Đế quốc Ottoman, một cường quốc đã bị hoàng đế Nikolai I của Nga mệnh danh là "thực thể ốm yếu ở châu Âu", nhưng bị Anh và Pháp phản đối quyết liệt.

Tàu chiến của Nga ở Crimea.

 

Năm 1854, quân Nga vượt sông Danube tràn vào xâm chiếm lãnh thổ của Đế quốc Ottoman. Anh và Pháp tuyên chiến với Nga và gửi quân tới để bảo vệ Thổ.

Tuy Anh và Pháp tuyên chiến với Nga vào ngày 28 tháng 3 năm 1854, xích mích giữa hai phe xảy ra từ cuộc đảo chính năm 1851 tại Pháp. Hoàng đế nước Pháp là Napoléon III lên ngôi và yêu cầu Đế quốc Ottoman phải công nhận Pháp có chủ quyền đối với vùng đất thánh (xứ Do Thái hay Israel ngày nay).

Nga buộc Ottoman phải khước từ điều kiện của Pháp, đồng thời công nhận Nga là thế lực bảo vệ Công giáo tại Ottoman. Napoléon III lập tức đưa chiến hạm Charlemagne vào biển Ban Tích, coi thường hiệp ước hàng hải khu vực. Sultan Ottoman là Abdul Mejid I theo Pháp, công nhận Pháp và Giáo hội Công giáo Rôma có quyền lực cao nhất của Công giáo trong vùng đất thánh, và là nước bảo hộ cho giáo dân khắp nơi.

Quyền hành này trước đó thuộc Giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp. Hoàng đế Nikolai I đưa quân đoàn bộ binh số 4 và 5 ra sông Danube diễn binh dằn mặt và cho bộ trưởng ngoại giao là Công tước Karl Nesselrode sang điều đình với triều đình Ottoman. Tuy nhiên Nga cũng muốn hòa hoãn với Anh và Pháp, chủ ý rằng cuộc tranh cãi chỉ là giữa Nga và Ottoman, không liên hệ gì đến Anh và Pháp. Nga muốn ngầm tránh tạo cơ hội cho Anh và Pháp hợp binh nhau chống lại mình.

Nikolai tiếp tục trấn an Tây Âu rằng Nga đã ngưng bành trướng, và vụ lộn xộn tại Đế quốc Ottoman chỉ là chuyện tôn giáo địa phương mà thôi. Kế đến, hoàng đế Nga gửi sứ giả Aleksandr Sergeyevich Menshikov sang Ottoman đòi ký hiệp ước riêng rằng nếu Sultan Abdul Mejid không đủ khả năng bảo vệ giáo hội và giáo dân Công giáo thì Nga có quyền vào giúp. Menshikov đi tàu lớn vào cảng Porte và lập tức kết tội Abdul Mejid là thông đồng với Pháp, và đòi thay đổi các nhân viên cao cấp trong chính quyền Ottoman.

Lúc bấy giờ cố vấn ngoại giao Anh là Hugh Rose đang có mặt tại tòa đại sứ Anh tại kinh đô Constantinopolis. Ông thu nhận tin tình báo về quân Nga đang tụ tập dọc sông Danube và vấn đề Menshikov đặt ra ở cảng Porte. Rose liền truyền lệnh cho hạm đội Anh từ miền đông Địa Trung Hải kéo về hướng Constantinopolis. Tuy nhiên mệnh lệnh này bị đề đốc hạm đội Anh từ chối, do ông cho Rose không được lạm quyền. Chỉ có hải quân Pháp kéo đến giúp Ottoman.

 

(Còn tiếp)

H.C.T (Tổng hợp)