Giữ yên giấc ngủ của Người (Kỳ 12)

06:40 | 26/06/2014

1,183 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Cùng một lúc, tất cả mọi người có mặt đều nghĩ: Chính nơi đây những năm xưa, bóng Bác in lồng lộng trên Quảng trường, Bác tươi cười vẫy chào đồng bào đồng chí. Nơi đây, trên lễ đài, dấu chân Bác như còn ấm nóng, lời nói của Bác như còn vang vọng khắp non sông, động viên quân và dân ta vượt qua bao thử thách khắc nghiệt trong công cuộc kháng chiến cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Năng lượng Mới số 332

>> Giữ yên giấc ngủ của Người (Kỳ 11)

Mơ ước của Bác “Đất nước thống nhất, đồng bào Nam - Bắc sum họp một nhà...” đang thành hiện thực.

Mảng bê tông Bác thường đứng trên lễ đài, di vật quý báu ấy được lưu giữ cho đời sau, sẽ góp phần kể lại một thời đại hiển hách của dân tộc - Thời đại Hồ Chí Minh.

Đúng 10 giờ đêm hôm ấy, toàn bộ mặt bằng công trường bắt đầu được quây kín bằng lớp hàng rào bảo vệ. Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ quân đội cùng anh chị em công nhân công trường xây dựng đã hoàn thành trận ra quân đầu tiên này vào lúc trời rạng sáng trước sự ngỡ ngàng, thích thú của nhân dân. “Tin lành đồn xa”, không mấy chốc người Hà Nội và khách vãng lai trên đất thủ đô đã truyền tin nhau, vui vẻ đàm luận. Tất cả như đều hướng về Quảng trường Ba Đình với một nỗi chờ mong, một niềm tin yêu thiết tha.

Có thể nói, ngày 18 tháng 6 năm 1973 là thời khắc đánh dấu sự kết thúc của một thời kỳ chuẩn bị và mở đầu một giai đoạn mới - giai đoạn thi công Lăng Bác.

Chuyên gia Liên Xô hướng dẫn cán bộ Việt Nam ghép đá trong Lăng Bác

2. Từ tháng 9 năm 1973, mô hình tổ chức của lực lượng bộ đội lắp máy đã ổn định và hoạt động có hiệu lực, Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Công binh quyết định thành lập “Bộ chỉ huy lắp máy” gồm các đồng chí Trần Bá Đặng, Lương Soạn, Nguyễn Văn Tý.

Một cơ quan đặc trách đã được thành lập - cơ quan này vừa giúp việc cho bộ chỉ huy lắp máy vừa giúp việc cho Ban phụ trách và Ban chỉ huy công trường 75808. Quân đội đã cử 32 cán bộ tham gia vào các cơ quan nghiệp vụ thuộc Ban chỉ huy công trường. Nhiều đồng chí được bổ nhiệm giữ cấp trưởng các phòng kế hoạch, chính trị, cấp phó các phòng kỹ thuật, cơ điện, cung ứng vật tư, bảo vệ... Ngoài ra quân đội còn cử 31 cán bộ khác tham gia vào cơ quan giúp việc Ban phụ trách xây dựng Lăng như các phòng chuyên gia, phòng giám sát chất lượng, văn phòng của Ban phụ trách...

Cơ quan đặc trách ở lúc cao điểm được tăng cường tới 90 cán bộ. Đồng chí Lương Soạn được chỉ định phụ trách cơ quan.

Trung đoàn 259B - Đoàn Ba Đình - là lực lượng trực tiếp thi công lắp ráp thiết bị của Lăng đến lúc này đã ổn định về tổ chức. Ban Chỉ huy Đoàn gồm các đồng chí Nguyễn Văn Tý đoàn trưởng, Đinh Văn Khánh chính ủy. Các đồng chí kỹ sư: Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Quế, Lê Hãn... là Đoàn phó phụ trách từng mặt công tác như tham mưu, kỹ thuật, khí tài.

Các cơ quan của Đoàn cũng đã hình thành các ban tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, khí tài, hành chính... tập họp một lực lượng đông đảo kỹ sư và cán bộ kỹ thuật các ngành.

Lực lượng thi công trực tiếp gồm các đội lắp máy (C7), đội lắp điện (C8), đội lắp ống (C9), đội gia công (C10) và đội vận tải (C11).

Thường vụ Đảng ủy Binh chủng Công binh quyết định lập Ban Cán sự Đảng, thay mặt cho Đảng ủy binh chủng lãnh đạo toàn diện các mặt công tác của bộ đội tại Lăng Bác. Ban Cán sự Đảng gồm các đồng chí: Trần Bá Đặng, Lưu Công Tiền, Lương Soạn, Văn Đình Khánh, Nguyễn Văn Tý.

Chỉ trong thời gian ngắn, cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên ưu tú được điều động về đã được sắp xếp hợp lý. Hàng trăm cán bộ đủ các ngành nghề, đủ mọi quân chủng, binh chủng đã nhanh chóng vượt qua những bỡ ngỡ buổi đầu, hòa nhập với nhau không chỉ trong nhiệm vụ mà cả trong phương pháp công tác, tác phong sinh hoạt...

Cán bộ các ngành nghề điều về đơn vị đều được luân phiên nhau đi bồi dưỡng nâng cao trình độ tại các nhà máy, công trường lắp ráp, các cơ sở nghiên cứu khoa học... Trình độ chỉ huy, chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ được nâng lên nắm bắt được các biện pháp thi công tiên tiến. Các kỹ sư của 22 chuyên ngành được rèn luyện qua thực tiễn đã trưởng thành nhanh chóng và phát huy tác dụng khi bắt tay vào thi công lắp ráp các thiết bị ở Lăng.

3. Sau cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt, đường sá, cầu phà đều trở ngại. Cảng Hải Phòng chưa khôi phục hết năng lực bốc dỡ, tàu vào cảng phải chờ hằng tháng... Song các cán bộ chiến sĩ làm công tác cung ứng vật tư không bao giờ ỷ vào những khó khăn trên mà luôn luôn phấn đấu hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ. Hàng ngàn mặt hàng tập kết ở các sân bay, sân ga, cầu cảng, đã được đưa về công trường bằng tất cả phương tiện từ thô sơ đến hiện đại... Nguồn hàng chi viện cho công trình đã được cơ quan khí tài - vật tư tiếp nhận kịp thời, bảo quản tốt, sẵn sàng đưa vào sử dụng cho công trình theo tiến độ thi công. Ở đây cần ghi nhận sự giúp đỡ hết lòng của các ngành, các địa phương có liên quan. Cảng Hải Phòng luôn ưu tiên cho các tàu có hàng của công trình Lăng Bác được bốc dỡ sớm. Ngành đường sắt dành cho công trình Lăng Bác những toa tàu tốt nhất, bảo vệ nghiêm ngặt các mặt hàng cho công trình suốt dọc đường...

Quân đội với cố gắng cao nhất của mình trong việc tìm kiếm vật tư nhưng cũng chỉ đáp ứng được 40 phần trăm nhu cầu. Đất nước còn nghèo, chiến tranh chưa hoàn toàn chấm dứt, các địa phương, các ngành đều gặp những khó khăn, nhưng với công trình Lăng Bác họ sẵn sàng chi viện hết mình cho công trình. Ủy ban Hành chính Ninh Bình rút từ một xí nghiệp của tỉnh để cho công trình Lăng mượn máy cắt thép tấm. Công trường nhà máy cán thép Gia Sàng giúp gia công toàn bộ vỏ nhôm bảo ôn ống nước và cho mượn pa-lăng, tời, máy đánh gỉ, máy uốn ống. Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân cho mượn nhiều loại máy đo lường điện - điện tử. Nhà máy quy chế Từ Sơn, Nhà máy cơ khí điện ảnh và xưởng quân giới X10, đã nhận sản xuất hàng chục vạn bộ bu lông - đai ốc có chất lượng cao để liên kết các đường ống hơi, ống nước của công trình...

Công đoạn đóng cọc bản thép tạo thành bức tường thép bao quanh hố móng của công trình đã tới. Song cọc bản thép do bạn cấp chưa đưa sang kịp. Thông cảm với khó khăn của bạn, công trường đã tạm mượn 200 cọc bản thép tại cảng Hải Phòng. Cán bộ của công trường cùng với cán bộ của hai Bộ Giao thông Vận tải và Vật tư đến các nơi (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Bắc, Hà Nội...) thu gom, chuyên chở được 1.237 tấn cọc bản thép về công trình trước khi hàng của bạn cập cảng Hải Phòng. Chiếc búa hơi nước của Tổng Công ty công trình cảng Hải Phòng cũng được cấp tốc điều về Ba Đình.

Ngày 9 tháng 8 năm 1973, tấm cọc thép đầu tiên đã được cắm xuống. Chiếc búa đi-ê-den của công ty thi công cơ giới Bộ Xây dựng cũng được điều về tiếp sức. Cả hai chiếc búa đều đã dầm mưa dãi nắng trên nhiều công trình. Tuy đã “già nua” cũ kỹ, nhưng kỳ diệu thay lúc này nó như đang sức hồi xuân, như một chàng trai bừng dậy với sức lực phi thường. Ngày cũng như đêm, dưới trời mưa tầm tã hay giữa trưa hè nắng gắt, tiếng búa đóng cọc vẫn cần mẫn, đều đặn. Một kỷ lục mới về năng suất đóng cọc đã được mở tại nơi đây. Bình quân mỗi ngày mỗi chiếc búa đóng được 18 cọc. Đột xuất có ngày búa hơi nước đóng được 34 cọc, búa đi-ê-den đóng được 21 cọc. Năng suất cao như vậy nhưng chất lượng vẫn bảo đảm, độ vững chắc của công trình là lời minh chứng.

Ngày 20 tháng 10 năm 1973, tấm cọc thép thứ 1.200 - tấm cọc thép cuối cùng của công trình được đóng xuống, khép kín bức tường bao quanh hố móng, vượt thời gian quy định.

4. Tháng 8 - mưa bão đến dồn dập. Những cơn mưa tầm tã làm cho bầu trời Hà Nội như giăng một lớp mù xám xịt. Mặt đất ẩm ướt, nhiều chỗ nước đọng thành vũng. Ai đã từng có mặt ở công trường mới thấy hết nỗi vất vả, nhọc nhằn của cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên những ngày này. Mưa vẫn xối xả, tiếng búa máy vẫn vang vang. Những bộ quần áo đẫm nước. Những gương mặt loáng nước. Nước chảy ròng ròng trên tóc, lăn trên những hố mắt lo âu thiếu ngủ. Những lúc này, các đồng chí lãnh đạo của Ban phụ trách xây dựng Lăng, ban chỉ huy công trường thay phiên nhau có mặt tại hiện trường, cũng gội mưa, lội nước như những công nhân thực thụ.

Nỗi lo trùm lên tất cả là nguồn nguyên vật liệu. Không đổ xong bê tông phần ngầm trước mùa mưa lũ, kế hoạch khánh thành Lăng theo quy định không thể thực hiện được. Ban phụ trách xây dựng Lăng cử gấp hai đồng chí thuộc Bộ Xây dựng và một đồng chí cán bộ quân đội sang Liên Xô cùng bạn đẩy nhanh tiến độ thiết kế thi công, và thường trực cùng với bạn tổ chức điều hành việc đưa vật tư - thiết bị về công trường. Chưa thật yên tâm, Ban phụ trách lại cử tiếp đồng chí đoàn phó phụ trách vật tư của Đoàn Ba Đình cùng một đồng chí phiên dịch sang “cắm chốt” tại Mátxcơva theo dõi, đôn đốc việc gửi thiết bị từ Liên Xô về nước.

Đồng chí Đỗ Mười đã liên tục điện cho sứ quán ta tại Mátxcơva đề nghị bạn tạo mọi điều kiện gửi vật tư - thiết bị sang ngay, đề nghị ban tổ chức một chuyến tàu hỏa đưa hàng của Lăng về Hà Nội trong tháng 9 năm 1973 và đề nghị bạn chở hàng của Lăng bằng những chuyến tàu biển riêng. Đồng chí Đỗ Mười còn đề nghị bạn tăng thêm chuyên gia thi công cho công trình. Sự chỉ đạo kiên quyết, sâu sát của đồng chí Trưởng ban phụ trách xây dựng Lăng như một sự khơi nguồn để dòng thác công việc tiếp tục xuôi chảy.

Mùa mưa lũ chưa chấm dứt.

Ban phụ trách xây dựng Lăng đã quyết định thi công xen kẽ, đào hố móng cùng lúc với tiến trình đóng cọc bản thép. Một quyết định hết sức táo bạo. Những cơn mưa bão đột ngột có thể san bằng công sức của hàng ngàn con người, hố móng sẽ biến thành hồ nước. Song, không có cách nào khác, thời gian hoàn thành công trình đang là tiếng gọi thôi thúc. Sáu mươi ngàn mét khối đất cần đào và di chuyển đi nơi khác đâu phải là một khối lượng nhỏ. Nếu dùng lực lượng thủ công phải có 300 người đào trong 8 tháng. Ban phụ trách giao công ty thi công cơ giới Bộ Xây dựng đảm nhiệm việc này. Lực lượng quân đội và một số lực lượng khác làm nhiệm vụ hỗ trợ bằng lao động thủ công.

Ngày 2 tháng 9 năm 1973, lễ khởi công xây dựng Lăng Bác diễn ra tại hiện trường. Ngay đêm hôm trước, một cơn mưa tầm tã kéo dài như đe dọa. Sáng hôm đó mưa tạm ngớt. Mọi người hướng về phía các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp, Đỗ Mười - những người chủ trì buổi lễ. Mưa dừng hẳn, bầu trời Quảng trường bỗng chốc được nâng lên cao vọi. Những tia nắng sớm tinh khiết vừa ánh lên đã đọng lại trên những gương mặt mọi người hớn hở. Một rừng cờ. Cờ bay trong nắng, cờ tô thắm những cặp mắt nồng nàn chờ đợi. Một đoàn người gồm 20 chiếc xe “bò tót” cắm cờ đỏ đuôi nheo đã xếp hàng ngay ngắn cạnh khu đất đào hố móng. Đúng 8 giờ chiếc máy xúc E652 được lệnh ngoạm gàu đất đầu tiên. Người công nhân lái xe nổi tiếng về năng suất và an toàn lao động được vinh dự đón nhận gàu đất đầu tiên. Đất từ gàu xúc nhả ra đầy ắp thùng xe. Chiếc xe rùng mình chuyển động. Lần lượt các chiếc xe khác vào thay thế. Đoàn xe chở đầy đất nối nhau chạy về phía Giảng Võ, rẽ xuống một con đường nhỏ. Tới đây, đất được đổ xuống một vùng ao hồ, đầm lầy thuộc khu vực Láng Trung. Ban phụ trách xây dựng Lăng đã quyết định dành toàn 60.000 mét khối đất ở đây cho một công trình đầy ý nghĩa: tôn nền cho “bệnh viện Nhi Việt Nam - Thụy Điển” sau này.

Buổi trưa, một cơn bão tràn tới. Gió gầm rít. Mưa giăng kín trời. Những máy xúc vẫn làm việc. Những chiếc xe chở đất vẫn chạy. Mặt đất vóng vánh nước. Đường vận chuyển trơn. Cuộc vật lộn với dông bão để đảm bảo tiến độ thi công của cán bộ, chiến sĩ công trường đã thắng. Những ngày tiếp theo, họ không những làm một ca mà làm hai ca và thêm cả ngày Chủ nhật. Góp sức làm nên ngôi nhà dành cho giấc ngủ yên lành của Bác, hình như không một ai tính toán sức lực, thời gian mình đổ ra.

Ban phụ trách xây dựng Lăng chủ trương vận động các cơ quan, xí nghiệp, trường học, các đơn vị lực lượng vũ trang tại Hà Nội tham gia lao động tự nguyện trong các ngày nghỉ, cùng công trường đẩy nhanh tiến độ thi công. Hầu như mọi tầng lớp nhân dân đang chờ đợi điều này. Nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và quân đội, mặc dầu bộn bề công việc vẫn tham gia lao động. Thầy và trò các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và phổ thông trung học... nô nức tham gia lao động xã hội chủ nghĩa. Cán bộ, chiến sĩ các cơ quan Bộ Quốc phòng và các quân chủng, binh chủng, cán bộ và công nhân các bộ, ngành và các nhà máy, xí nghiệp... thay phiên nhau đến tham gia lao động trên công trường.

Mặt bằng công trường có hạn, không thể tiếp thu số lượng người quá lớn trong cùng một lúc. Nhiều cơ quan tổ chức cho cán bộ, công nhân viên của mình tham gia lao động trong cả giờ hành chính.

Ngót 60 ngày đêm liên tục, bằng sức lao động dẻo dai, sáng tạo của hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên công trường và sự hỗ trợ hết sức quý báu của cán bộ, công nhân của các ngành, các bộ và mọi tầng lớp nhân dân Thủ đô, công đoạn đào hố móng Lăng Bác đã hoàn thành hết sức tốt đẹp.

Ngày 29 tháng 10 năm 1973, Thủ tướng Phạm Văn Đồng tới thăm công trường và xúc tảng đất cuối cùng kết thúc công đoạn đào hố móng. So với định mức, công trường đã thực hiện vượt chỉ tiêu thời gian 16 ngày.

5. Những ngày này, khắp nơi trên mọi miền đất nước cũng đang hướng về Quảng trường Ba Đình. Ai cũng muốn Lăng Bác được hoàn thành sớm hơn. Các đơn vị, các ngành, các địa phương đều mong được đóng góp sức người, sức của vào công trình. Tại nhà máy xi măng Hải Phòng, các cán bộ chuyên môn tập trung sức lực và trí tuệ nghiên cứu loại xi măng đặc biệt dùng cho công trình. Đây là loại xi măng mác cao, nhà máy chưa sản xuất bao giờ, nhưng nghĩ đến thành phẩm của nhà máy được sử dụng vào công trình Lăng Bác ai cũng phấn khởi. Các đồng chí Lê Thanh Nghị, Đỗ Mười trực tiếp xuống nhà máy giao nhiệm vụ và động viên cán bộ, công nhân viên khắc phục khó khăn làm bằng được. Nhà máy vừa trải qua hai cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Ngót hai vạn tấn bom của giặc đã trút xuống nơi đây. Việc hàn gắn những đổ vỡ do bom đạn gây ra đang mới bắt đầu. Nhưng nghĩ đến Bác, mọi người đều nêu quyết tâm sản xuất bằng được loại xi măng tốt nhất để xây dựng Lăng của Người. Lò nung, máy nghiền được phục hồi. Quy trình sản xuất được nghiên cứu thấu đáo. Việc tuyển chọn các phôi liệu có chất lượng cao được bàn luận sôi động.

Giữ yên giấc ngủ của Người

Nguyên liệu đầu tiên phải tuyển chọn là đá. Đá Tràng Kênh nổi tiếng là tốt. Nhưng nhận được yêu cầu của nhà máy và biết được công việc của mình làm, anh chị em mỏ đá Tràng Kênh đã tới tận vùng Áng Vàng, Áng Thi tìm chọn công phu loại đá nhà máy cần dùng. Những thuyền đá được chuyển về nhà máy xi măng mang cả tấm lòng của những người thợ giàu truyền thống kiên cường cách mạng và đời đời nhớ ơn Bác.

Thứ nguyên liệu làm chất phụ gia để sản xuất xi măng là đất vùng Cổ Pháp (Thủy Nguyên) - một loại đất có chất lượng “lý tưởng”. Nhân dân địa phương thường dùng loại đất này xây tường nhà bền chắc nổi tiếng. Loại đất này cũng được tuyển chọn về làm xi măng để xây Lăng Bác.

Từ khâu tuyển chọn nguyên liệu tốt tới lúc sản xuất ra loại xi măng đạt yêu cầu là cả một dây chuyền công nghệ phức tạp được hình thành bởi trí tuệ và những bàn tay khéo léo của tập thể cán bộ, công nhân Nhà máy xi măng - một nhà máy mang truyền thống anh hùng của đất Cảng. Mẻ đầu tiên 50 tấn xi măng được đưa vào thí nghiệm và kiểm tra ngặt nghèo. Kết quả tốt đẹp vượt quá sự mong ước. Loại xi măng không những đạt mác cao, lại đáp ứng được cả các tiêu chuẩn khác về thời gian độ tỏa nhiệt và đông cứng... Sau mẻ đầu tiên, hàng loạt mẻ khác ra đời. Chị em phụ nữ nhà máy tranh thủ các ngày chủ nhật - ngày “Đền ơn Bác Hồ” - để sản xuất bao bì. Bao bì do chị em sản xuất in dòng chữ “Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”.

Hàng chục nghìn tấn xi măng đặc biệt đựng trong những bao bì như thế đã được chuyển tới công trường. Với thành quả lao động xuất sắc trên, Nhà máy xi măng Hải Phòng chẳng những đã nhanh chóng phục hồi sản xuất mà còn vươn tới đỉnh cao mới. Tiến bộ mới về kỹ thuật, về khả năng sản xuất loại xi măng chất lượng cao, tạo cho nhà máy một đà đi lên vững chắc, thực hiện lòng mong muốn của Bác Hồ: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”.

Đá dăm dùng cho công trình cũng cần tới hàng vạn mét khối. Đá dăm Xuân Hòa thường được coi là có chất lượng cao, thích ứng với các kết cấu bê tông vĩnh cửu. Các nhà kỹ thuật đã tới đây nghiên cứu kỹ lưỡng, khi xay ra tỷ lệ hạt dẹt vẫn còn cao, chỉ dùng được một phần nhỏ. Các nhà kỹ thuật tìm tới Thác Bà, đá ở đây có nhiều ưu thế hơn. Ban lãnh đạo quyết định chọn mỏ đá Hoàng Thi ở khu vực Thác Bà làm nơi khai thác. Nhân dân các dân tộc Yên Bái náo nức tin vui khi được Nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp đá cho công trình Lăng Bác. Bộ Giao thông vận tải nhận chuyển đá bằng mọi phương tiện từ mỏ về công trường. Bộ Công an bảo vệ an toàn. Viện Thí nghiệm vật liệu tổ chức bộ phận nghiệm thu chất lượng ngay tại nơi khai thác.

Công trường Hoàng Thi sống dậy với một sức mạnh chưa từng thấy. Ngoài các đội sản xuất của công trường, còn có hàng trăm nam nữ thanh niên các dân tộc Kinh, Dao, Nùng, Cao Lan... góp sức. Tiếng máy khoan, tiếng mìn, tiếng búa đập đá, những điệu hát dân tộc đậm đà, hồn nhiên cộng với những sắc phục phong phú, đa dạng, công trường trở thành ngày hội của những người lao động tự nguyện. Chưa đầy một tháng, hàng vạn mét khối đá Thác Bà được bốc xếp lên các đoàn ô tô, các toa tàu hỏa hoặc theo các đoàn ca nô xuôi dòng sông Lô, sông Hồng về Ba Đình.

(Xem tiếp kỳ sau)

Theo Giữ yên Giấc ngủ của Người