Bùng nổ dầu mỏ ở các nước thu nhập thấp

Lợi bất cập hại

15:00 | 14/09/2023

|
(PetroTimes) - Một nghiên cứu mới đây đã chỉ ra rằng, một số quốc gia có thu nhập thấp đang hy vọng về tiềm năng kinh tế từ dầu mỏ, nhưng có nhiều quốc gia có thể bị buộc phải đầu tư vào nhiên liệu hóa thạch để trả nợ.
Lợi bất cập hại
Ghana được coi là ngôi sao đang lên của châu Phi nhờ hệ thống chính trị ổn định, nền kinh tế đang phát triển và sự phát triển nhanh chóng của ngành Dầu khí

Sự thịnh vượng từ dầu mỏ

Một số quốc gia đang nỗ lực khai thác lợi ích các nguồn tài nguyên dầu khí chưa được khai thác để nâng cao vị thế trong các dự án phát triển mới, từ đó mang lại doanh thu để hỗ trợ nền kinh tế. Tuy nhiên, một báo cáo được công bố mới đây cho thấy điều này có thể không đúng với tất cả các quốc gia có thu nhập thấp, trong đó, không ít dự án nhiên liệu hóa thạch chỉ để trả nợ.

Nhiều công ty dầu khí đang theo đuổi việc thăm dò, khai thác các khu vực dầu mỏ mới với hy vọng phát triển các dự án dầu khí carbon thấp ở những nơi chưa được khai thác, để giúp họ tiếp tục bơm dầu thô trong quá trình chuyển đổi xanh. Điều này đã khiến các “ông lớn” năng lượng chuyển sang các quốc gia có thu nhập thấp ở châu Phi và vùng Caribe để phát triển các dự án mới.

Ở châu Phi, các cường quốc dầu mỏ chưa từng được biết đến trước đây như Ghana và Namibia đang kỳ vọng chứng kiến sự bùng nổ dầu mỏ trong thập niên tới, nhờ một số dự án thăm dò thành công trong những năm gần đây. Và, không giống nhiều quốc gia từng bị bóc lột vì sự giàu có về dầu mỏ, chính phủ của các quốc gia này muốn “ăn” hết “miếng bánh” của họ.

Chính phủ Namibia muốn được nhận một phần hợp lý trong tất cả các giấy phép khai thác dầu mới, mang lại doanh thu dài hạn, nhằm thúc đẩy nền kinh tế quốc gia và bồi thường cho các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi sự phát triển. Cách tiếp cận này cũng đang được Guyana, quốc gia sẵn sàng trở thành nhà khai thác dầu ngoài khơi lớn thứ tư thế giới, áp dụng.

Lợi bất cập hại
Một số quốc gia châu Phi đã chào đón đầu tư vào dầu khí trong những năm gần đây

Bẫy nợ hiện hữu

Thực tế cho thấy, các nước giàu hơn và những tổ chức cho vay tư nhân đang buộc các nước có những khoản nợ lớn phải phụ thuộc nhiều hơn vào nhiên liệu hóa thạch để trả nợ. Một số quốc gia có thu nhập thấp đang tiếp tục đầu tư vào các dự án dầu khí để trả nợ, chủ yếu là trả các khoản vay từ các quốc gia giàu có hơn.

Tess Woolfenden, người phụ trách chính sách cấp cao tại Debt Justice, giải thích: “Mức nợ cao là rào cản lớn đối với việc loại bỏ dần nhiên liệu hóa thạch đối với nhiều quốc gia. Nhiều quốc gia đang mắc kẹt trong việc khai thác nhiên liệu hóa thạch để tạo doanh thu trả nợ, đồng thời, các dự án nhiên liệu hóa thạch thường không tạo ra doanh thu như mong đợi và có thể khiến các quốc gia mắc nợ nhiều hơn so với khi bắt đầu vay. Cái bẫy độc hại này phải kết thúc”.

Số nợ từ các quốc gia phía Nam bán cầu đã tăng 150% kể từ năm 2011, với 54 quốc gia đang phải đối mặt với khủng hoảng nợ. Điều đó đã hạn chế số tiền mà các quốc gia này có thể đầu tư vào việc giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu hoặc phát triển các dự án năng lượng xanh.

Năm 2020, Chính phủ Suriname buộc phải đồng ý với một thỏa thuận cung cấp cho các chủ nợ quyền đối với gần 30% doanh thu từ dầu mỏ của đất nước cho đến năm 2050, sau khi nước này vỡ nợ. Suriname hiện được coi là ví dụ điển hình của làn sóng phát triển dầu khí mới, nơi nhiều người cho rằng người dân đang được hưởng lợi từ doanh thu của các dự án.

Sharda Ganga, người đứng đầu nhóm xã hội Surinam Projekta, cho hay: “Số nợ của chúng tôi ngày càng tăng không bền vững, nó chi phối tất cả các quyết định chính sách và tác động đến cuộc sống của người dân theo mọi cách có thể. Vì vậy, kiếm tiền càng nhanh càng tốt để trả nợ là ưu tiên số một. Điều đó có nghĩa là không còn chỗ cho sự kiên nhẫn và những thứ như tính bền vững hoặc công bằng khí hậu. Thực tế, đây là hình thức chủ nghĩa thực dân mới. Chúng ta đã đánh đổi một người cai trị để lấy sự cai trị của các chủ nợ, những người về cơ bản đã sở hữu những gì của chúng ta”.

“Lời nguyền dầu mỏ”

Guyana nhỏ bé, một thuộc địa cũ của Anh ở Nam Mỹ với dân số chưa đầy 1 triệu người, đang trên đà trở thành nhà xuất khẩu dầu mỏ lớn. Chỉ trong 4 năm, quốc gia nghèo khó này đã đi từ phát hiện đầu tiên đến khai thác dòng dầu đầu tiên, một khoảng thời gian cực kỳ ngắn đối với ngành dầu mỏ. Hiện Guyana đang khai thác khoảng 400.000 thùng/ngày.

Theo Ngân hàng trung ương Guyana, ngành công nghiệp dầu mỏ đã tạo ra doanh thu 439 triệu USD trong quý II/2023. Kể từ khi bắt đầu khai thác dầu vào năm 2019 cho đến cuối quý II/2023, Guyana đã kiếm được gần 2,7 tỉ USD từ 29 lần khai thác dầu, bao gồm 331 triệu USD từ tiền bản quyền và 2,3 tỉ USD lợi nhuận.

Với hơn 11 tỉ thùng dầu được xác định và hơn 35 phát hiện cho đến nay, cùng với việc Exxon đẩy mạnh phát triển khối Stabroek ngoài khơi, có những dấu hiệu cho thấy ngành công nghiệp dầu mỏ và nền kinh tế của Guyana sẽ tiếp tục bùng nổ. Điều này làm dấy lên lo ngại rằng Guyana sẽ trở nên dễ bị tổn thương trước “lời nguyền dầu mỏ”.

“Lời nguyền dầu mỏ” là một quốc gia bị choáng ngợp bởi sự giàu có từ dầu mỏ và bỏ qua các lĩnh vực kinh tế khác để ưu tiên tối đa hóa lợi nhuận do dầu mỏ mang lại, dẫn đến bất ổn về kinh tế và chính trị do quản lý yếu kém, tham nhũng tràn lan, gia tăng xung đột... Nó cũng làm cho các quốc gia cực kỳ dễ bị tổn thương trước sự sụt giảm giá dầu, chẳng hạn như các cú sốc dầu trong những năm 80 của thế kỷ trước.

Bất ổn chính trị là kết quả rõ nét nhất của “lời nguyền dầu mỏ”, minh chứng là Venezuela, nơi dầu mỏ là nguồn thu nhập chính và là mặt hàng xuất khẩu chính, hiện chỉ còn là “một đống đổ nát”.

Guyana đang phải đối mặt với một tương lai tương tự Venezuela. Cơ quan giám sát tham nhũng toàn cầu xếp Guyana ở vị trí thứ 85 trong số 180 quốc gia mà tổ chức này đánh giá vào năm 2022. Thứ hạng càng thấp, mức độ tham nhũng càng cao.

Số nợ từ các quốc gia phía Nam bán cầu đã tăng 150% kể từ năm 2011, với 54 quốc gia đang phải đối mặt với khủng hoảng nợ. Điều đó đã hạn chế số tiền đầu tư vào việc giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu hoặc phát triển các dự án năng lượng xanh.
Guyana: Báu vật mới của thị trường dầu mỏ và thách thức cho sự thống trị của OPEC+Guyana: Báu vật mới của thị trường dầu mỏ và thách thức cho sự thống trị của OPEC+
Đầu mối mới trong bí ẩn xung quanh vụ nổ Nord StreamĐầu mối mới trong bí ẩn xung quanh vụ nổ Nord Stream
Đức tiếp tục kiểm soát tài sản của Rosneft trong giai đoạn tranh chấpĐức tiếp tục kiểm soát tài sản của Rosneft trong giai đoạn tranh chấp
Đức bùng nổ nhập khẩu các sản phẩm dầu mỏ Nga được xử lý tại Ấn ĐộĐức bùng nổ nhập khẩu các sản phẩm dầu mỏ Nga được xử lý tại Ấn Độ

Minh Quân

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • pvp-2023
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 68,150 68,950
AVPL/SJC HCM 68,150 68,850
AVPL/SJC ĐN 68,150 68,950
Nguyên liệu 9999 - HN 55,700 56,250
Nguyên liệu 999 - HN 55,600 56,000
AVPL/SJC Cần Thơ 68,150 68,950
Cập nhật: 01/10/2023 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 56.000 57.000
TPHCM - SJC 68.100 68.800
Hà Nội - PNJ 56.000 57.000
Hà Nội - SJC 68.100 68.800
Đà Nẵng - PNJ 56.000 57.000
Đà Nẵng - SJC 68.100 68.800
Miền Tây - PNJ 56.000 57.000
Miền Tây - SJC 68.350 68.850
Giá vàng nữ trang - Nhẫn PNJ (24K) 56.000 56.900
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 55.800 56.600
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 41.200 42.600
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 31.860 33.260
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 22.300 23.700
Cập nhật: 01/10/2023 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Vàng TT, 3A, NT Nghệ An 5,590 5,690
Vàng trang sức 99.99 5,535 5,670
Vàng trang sức 99.9 5,525 5,660
Vàng NL 99.99 5,550
Vàng miếng SJC Thái Bình 6,825 6,890
Vàng miếng SJC Nghệ An 6,825 6,890
Vàng miếng SJC Hà Nội 6,825 6,890
Vàng NT, ĐV, 3A Hà Nội 5,590 5,690
Vàng Nhẫn tròn, 3A, Đồng Vàng Thái Bình 5,590 5,690
Nhẫn tròn không ép vỉ Thái Bình 5,570
Cập nhật: 01/10/2023 16:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 68,250 68,950
SJC 5c 68,250 68,970
SJC 2c, 1C, 5 phân 68,250 68,980
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 55,950 56,950
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 55,950 57,050
Nữ Trang 99.99% 55,850 56,650
Nữ Trang 99% 54,889 56,089
Nữ Trang 68% 36,676 38,676
Nữ Trang 41.7% 21,775 23,775
Cập nhật: 01/10/2023 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,333.78 15,488.67 15,986.71
CAD 17,609.33 17,787.20 18,359.15
CHF 26,016.28 26,279.07 27,124.08
CNY 3,258.38 3,291.29 3,397.63
DKK - 3,390.24 3,520.32
EUR 25,089.27 25,342.70 26,466.85
GBP 28,963.54 29,256.10 30,196.84
HKD 3,023.89 3,054.43 3,152.65
INR - 291.57 303.24
JPY 158.64 160.24 167.93
KRW 15.63 17.37 19.04
KWD - 78,412.29 81,552.96
MYR - 5,129.07 5,241.31
NOK - 2,239.68 2,334.94
RUB - 237.51 262.95
SAR - 6,458.57 6,717.25
SEK - 2,194.83 2,288.18
SGD 17,386.87 17,562.49 18,127.21
THB 588.34 653.71 678.79
USD 24,090.00 24,120.00 24,460.00
Cập nhật: 01/10/2023 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,320 15,340 15,940
CAD 17,591 17,601 18,301
CHF 26,040 26,060 27,010
CNY - 3,259 3,399
DKK - 3,356 3,526
EUR #24,835 24,845 26,135
GBP 29,091 29,101 30,271
HKD 2,974 2,984 3,179
JPY 158.51 158.66 168.21
KRW 15.77 15.97 19.77
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,195 2,315
NZD 14,316 14,326 14,906
SEK - 2,150 2,285
SGD 17,240 17,250 18,050
THB 612.53 652.53 680.53
USD #24,055 24,095 24,515
Cập nhật: 01/10/2023 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 24,120 24,120 24,420
USD(1-2-5) 23,901 - -
USD(10-20) 23,901 - -
GBP 29,094 29,270 30,162
HKD 3,035 3,056 3,144
CHF 26,100 26,258 27,076
JPY 159.86 160.82 168.14
THB 636.62 643.05 686.55
AUD 15,414 15,507 15,951
CAD 17,677 17,784 18,325
SGD 17,459 17,564 18,060
SEK - 2,201 2,274
LAK - 0.91 1.26
DKK - 3,396 3,508
NOK - 2,245 2,320
CNY - 3,290 3,379
RUB - 225 289
NZD 14,373 14,460 14,852
KRW 16 - 19.03
EUR 25,258 25,327 26,449
TWD 682.99 - 825.09
MYR 4,842.49 - 5,455.13
Cập nhật: 01/10/2023 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,130.00 24,160.00 24,480.00
EUR 25,326.00 25,428.00 26,034.00
GBP 29,222.00 29,398.00 30,057.00
HKD 3,052.00 3,064.00 3,149.00
CHF 26,169.00 26,274.00 26,944.00
JPY 160.48 161.12 164.44
AUD 15,412.00 15,474.00 15,949.00
SGD 17,557.00 17,628.00 18,019.00
THB 647.00 650.00 681.00
CAD 17,776.00 17,847.00 18,245.00
NZD 14,356.00 14,840.00
KRW 17.37 18.85
Cập nhật: 01/10/2023 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24090 24140 24450
AUD 15579 15629 16040
CAD 17894 17944 18359
CHF 26472 26522 26936
CNY 0 3292.9 0
CZK 0 980 0
DKK 0 3406 0
EUR 25519 25569 26185
GBP 29570 29620 30092
HKD 0 3000 0
JPY 160.44 160.94 167.04
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 16.65 0
LAK 0 1.3686 0
MYR 0 5100 0
NOK 0 2190 0
NZD 0 14474 0
PHP 0 324 0
SEK 0 2100 0
SGD 17631 17681 18090
THB 0 626.4 0
TWD 0 708 0
XAU 6830000 6830000 6870000
XBJ 5500000 5500000 5700000
Cập nhật: 01/10/2023 16:00