Bùng nổ dầu mỏ ở các nước thu nhập thấp

Lợi bất cập hại

15:00 | 14/09/2023

805 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Một nghiên cứu mới đây đã chỉ ra rằng, một số quốc gia có thu nhập thấp đang hy vọng về tiềm năng kinh tế từ dầu mỏ, nhưng có nhiều quốc gia có thể bị buộc phải đầu tư vào nhiên liệu hóa thạch để trả nợ.
Lợi bất cập hại
Ghana được coi là ngôi sao đang lên của châu Phi nhờ hệ thống chính trị ổn định, nền kinh tế đang phát triển và sự phát triển nhanh chóng của ngành Dầu khí

Sự thịnh vượng từ dầu mỏ

Một số quốc gia đang nỗ lực khai thác lợi ích các nguồn tài nguyên dầu khí chưa được khai thác để nâng cao vị thế trong các dự án phát triển mới, từ đó mang lại doanh thu để hỗ trợ nền kinh tế. Tuy nhiên, một báo cáo được công bố mới đây cho thấy điều này có thể không đúng với tất cả các quốc gia có thu nhập thấp, trong đó, không ít dự án nhiên liệu hóa thạch chỉ để trả nợ.

Nhiều công ty dầu khí đang theo đuổi việc thăm dò, khai thác các khu vực dầu mỏ mới với hy vọng phát triển các dự án dầu khí carbon thấp ở những nơi chưa được khai thác, để giúp họ tiếp tục bơm dầu thô trong quá trình chuyển đổi xanh. Điều này đã khiến các “ông lớn” năng lượng chuyển sang các quốc gia có thu nhập thấp ở châu Phi và vùng Caribe để phát triển các dự án mới.

Ở châu Phi, các cường quốc dầu mỏ chưa từng được biết đến trước đây như Ghana và Namibia đang kỳ vọng chứng kiến sự bùng nổ dầu mỏ trong thập niên tới, nhờ một số dự án thăm dò thành công trong những năm gần đây. Và, không giống nhiều quốc gia từng bị bóc lột vì sự giàu có về dầu mỏ, chính phủ của các quốc gia này muốn “ăn” hết “miếng bánh” của họ.

Chính phủ Namibia muốn được nhận một phần hợp lý trong tất cả các giấy phép khai thác dầu mới, mang lại doanh thu dài hạn, nhằm thúc đẩy nền kinh tế quốc gia và bồi thường cho các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi sự phát triển. Cách tiếp cận này cũng đang được Guyana, quốc gia sẵn sàng trở thành nhà khai thác dầu ngoài khơi lớn thứ tư thế giới, áp dụng.

Lợi bất cập hại
Một số quốc gia châu Phi đã chào đón đầu tư vào dầu khí trong những năm gần đây

Bẫy nợ hiện hữu

Thực tế cho thấy, các nước giàu hơn và những tổ chức cho vay tư nhân đang buộc các nước có những khoản nợ lớn phải phụ thuộc nhiều hơn vào nhiên liệu hóa thạch để trả nợ. Một số quốc gia có thu nhập thấp đang tiếp tục đầu tư vào các dự án dầu khí để trả nợ, chủ yếu là trả các khoản vay từ các quốc gia giàu có hơn.

Tess Woolfenden, người phụ trách chính sách cấp cao tại Debt Justice, giải thích: “Mức nợ cao là rào cản lớn đối với việc loại bỏ dần nhiên liệu hóa thạch đối với nhiều quốc gia. Nhiều quốc gia đang mắc kẹt trong việc khai thác nhiên liệu hóa thạch để tạo doanh thu trả nợ, đồng thời, các dự án nhiên liệu hóa thạch thường không tạo ra doanh thu như mong đợi và có thể khiến các quốc gia mắc nợ nhiều hơn so với khi bắt đầu vay. Cái bẫy độc hại này phải kết thúc”.

Số nợ từ các quốc gia phía Nam bán cầu đã tăng 150% kể từ năm 2011, với 54 quốc gia đang phải đối mặt với khủng hoảng nợ. Điều đó đã hạn chế số tiền mà các quốc gia này có thể đầu tư vào việc giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu hoặc phát triển các dự án năng lượng xanh.

Năm 2020, Chính phủ Suriname buộc phải đồng ý với một thỏa thuận cung cấp cho các chủ nợ quyền đối với gần 30% doanh thu từ dầu mỏ của đất nước cho đến năm 2050, sau khi nước này vỡ nợ. Suriname hiện được coi là ví dụ điển hình của làn sóng phát triển dầu khí mới, nơi nhiều người cho rằng người dân đang được hưởng lợi từ doanh thu của các dự án.

Sharda Ganga, người đứng đầu nhóm xã hội Surinam Projekta, cho hay: “Số nợ của chúng tôi ngày càng tăng không bền vững, nó chi phối tất cả các quyết định chính sách và tác động đến cuộc sống của người dân theo mọi cách có thể. Vì vậy, kiếm tiền càng nhanh càng tốt để trả nợ là ưu tiên số một. Điều đó có nghĩa là không còn chỗ cho sự kiên nhẫn và những thứ như tính bền vững hoặc công bằng khí hậu. Thực tế, đây là hình thức chủ nghĩa thực dân mới. Chúng ta đã đánh đổi một người cai trị để lấy sự cai trị của các chủ nợ, những người về cơ bản đã sở hữu những gì của chúng ta”.

“Lời nguyền dầu mỏ”

Guyana nhỏ bé, một thuộc địa cũ của Anh ở Nam Mỹ với dân số chưa đầy 1 triệu người, đang trên đà trở thành nhà xuất khẩu dầu mỏ lớn. Chỉ trong 4 năm, quốc gia nghèo khó này đã đi từ phát hiện đầu tiên đến khai thác dòng dầu đầu tiên, một khoảng thời gian cực kỳ ngắn đối với ngành dầu mỏ. Hiện Guyana đang khai thác khoảng 400.000 thùng/ngày.

Theo Ngân hàng trung ương Guyana, ngành công nghiệp dầu mỏ đã tạo ra doanh thu 439 triệu USD trong quý II/2023. Kể từ khi bắt đầu khai thác dầu vào năm 2019 cho đến cuối quý II/2023, Guyana đã kiếm được gần 2,7 tỉ USD từ 29 lần khai thác dầu, bao gồm 331 triệu USD từ tiền bản quyền và 2,3 tỉ USD lợi nhuận.

Với hơn 11 tỉ thùng dầu được xác định và hơn 35 phát hiện cho đến nay, cùng với việc Exxon đẩy mạnh phát triển khối Stabroek ngoài khơi, có những dấu hiệu cho thấy ngành công nghiệp dầu mỏ và nền kinh tế của Guyana sẽ tiếp tục bùng nổ. Điều này làm dấy lên lo ngại rằng Guyana sẽ trở nên dễ bị tổn thương trước “lời nguyền dầu mỏ”.

“Lời nguyền dầu mỏ” là một quốc gia bị choáng ngợp bởi sự giàu có từ dầu mỏ và bỏ qua các lĩnh vực kinh tế khác để ưu tiên tối đa hóa lợi nhuận do dầu mỏ mang lại, dẫn đến bất ổn về kinh tế và chính trị do quản lý yếu kém, tham nhũng tràn lan, gia tăng xung đột... Nó cũng làm cho các quốc gia cực kỳ dễ bị tổn thương trước sự sụt giảm giá dầu, chẳng hạn như các cú sốc dầu trong những năm 80 của thế kỷ trước.

Bất ổn chính trị là kết quả rõ nét nhất của “lời nguyền dầu mỏ”, minh chứng là Venezuela, nơi dầu mỏ là nguồn thu nhập chính và là mặt hàng xuất khẩu chính, hiện chỉ còn là “một đống đổ nát”.

Guyana đang phải đối mặt với một tương lai tương tự Venezuela. Cơ quan giám sát tham nhũng toàn cầu xếp Guyana ở vị trí thứ 85 trong số 180 quốc gia mà tổ chức này đánh giá vào năm 2022. Thứ hạng càng thấp, mức độ tham nhũng càng cao.

Số nợ từ các quốc gia phía Nam bán cầu đã tăng 150% kể từ năm 2011, với 54 quốc gia đang phải đối mặt với khủng hoảng nợ. Điều đó đã hạn chế số tiền đầu tư vào việc giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu hoặc phát triển các dự án năng lượng xanh.
Guyana: Báu vật mới của thị trường dầu mỏ và thách thức cho sự thống trị của OPEC+Guyana: Báu vật mới của thị trường dầu mỏ và thách thức cho sự thống trị của OPEC+
Đầu mối mới trong bí ẩn xung quanh vụ nổ Nord StreamĐầu mối mới trong bí ẩn xung quanh vụ nổ Nord Stream
Đức tiếp tục kiểm soát tài sản của Rosneft trong giai đoạn tranh chấpĐức tiếp tục kiểm soát tài sản của Rosneft trong giai đoạn tranh chấp
Đức bùng nổ nhập khẩu các sản phẩm dầu mỏ Nga được xử lý tại Ấn ĐộĐức bùng nổ nhập khẩu các sản phẩm dầu mỏ Nga được xử lý tại Ấn Độ

Minh Quân

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,200 ▼300K 120,200 ▼300K
AVPL/SJC HCM 118,200 ▼300K 120,200 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 118,200 ▼300K 120,200 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,120 ▼260K 11,400 ▼160K
Nguyên liệu 999 - HN 11,110 ▼260K 11,390 ▼160K
Cập nhật: 09/05/2025 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 ▼700K 116.100 ▼1100K
TPHCM - SJC 118.200 ▼300K 120.200 ▼300K
Hà Nội - PNJ 113.500 ▼700K 116.100 ▼1100K
Hà Nội - SJC 118.200 ▼300K 120.200 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 113.500 ▼700K 116.100 ▼1100K
Đà Nẵng - SJC 118.200 ▼300K 120.200 ▼300K
Miền Tây - PNJ 113.500 ▼700K 116.100 ▼1100K
Miền Tây - SJC 118.200 ▼300K 120.200 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 ▼700K 116.100 ▼1100K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.200 ▼300K 120.200 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500 ▼700K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.200 ▼300K 120.200 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500 ▼700K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 ▼700K 116.100 ▼1100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 ▼700K 116.100 ▼1100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.300 ▼900K 115.800 ▼900K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.180 ▼900K 115.680 ▼900K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.470 ▼900K 114.970 ▼900K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.240 ▼890K 114.740 ▼890K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.500 ▼680K 87.000 ▼680K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.390 ▼530K 67.890 ▼530K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.820 ▼380K 48.320 ▼380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.670 ▼830K 106.170 ▼830K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.290 ▼550K 70.790 ▼550K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.920 ▼590K 75.420 ▼590K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.390 ▼620K 78.890 ▼620K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.080 ▼330K 43.580 ▼330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.860 ▼300K 38.360 ▼300K
Cập nhật: 09/05/2025 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,240 ▼50K 11,690 ▼50K
Trang sức 99.9 11,230 ▼50K 11,680 ▼50K
NL 99.99 11,050 ▼50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,050 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 ▼50K 11,750 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 ▼50K 11,750 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 ▼50K 11,750 ▼50K
Miếng SJC Thái Bình 11,820 ▼30K 12,020 ▼30K
Miếng SJC Nghệ An 11,820 ▼30K 12,020 ▼30K
Miếng SJC Hà Nội 11,820 ▼30K 12,020 ▼30K
Cập nhật: 09/05/2025 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16109 16375 16960
CAD 18130 18405 19025
CHF 30597 30973 31619
CNY 0 3358 3600
EUR 28530 28798 29827
GBP 33567 33955 34902
HKD 0 3210 3413
JPY 171 175 182
KRW 0 17 19
NZD 0 14998 15589
SGD 19445 19725 20253
THB 700 763 816
USD (1,2) 25713 0 0
USD (5,10,20) 25752 0 0
USD (50,100) 25780 25814 26156
Cập nhật: 09/05/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 33,943 34,035 34,949
HKD 3,283 3,293 3,393
CHF 30,766 30,861 31,732
JPY 174.85 175.16 183.01
THB 748.83 758.08 810.84
AUD 16,394 16,453 16,901
CAD 18,410 18,469 18,970
SGD 19,655 19,716 20,330
SEK - 2,621 2,713
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,843 3,976
NOK - 2,447 2,533
CNY - 3,547 3,643
RUB - - -
NZD 14,979 15,118 15,560
KRW 17.22 17.96 19.3
EUR 28,712 28,735 29,966
TWD 778.78 - 942.86
MYR 5,631.14 - 6,356.71
SAR - 6,808.25 7,169.96
KWD - 82,324 87,648
XAU - - -
Cập nhật: 09/05/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,557 28,672 29,776
GBP 33,746 33,882 34,851
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 30,669 30,792 31,690
JPY 173.90 174.60 181.74
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,615 19,694 20,232
THB 763 766 800
CAD 18,311 18,385 18,897
NZD 15,042 15,549
KRW 17.63 19.42
Cập nhật: 09/05/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25795 25795 26155
AUD 16279 16379 16947
CAD 18305 18405 18962
CHF 30831 30861 31754
CNY 0 3548.5 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28799 28899 29677
GBP 33875 33925 35041
HKD 0 3355 0
JPY 174.86 175.86 182.38
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15112 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19598 19728 20457
THB 0 729.5 0
TWD 0 845 0
XAU 11930000 11930000 12130000
XBJ 11750000 11750000 12000000
Cập nhật: 09/05/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,809 25,859 26,170
USD20 25,809 25,859 26,170
USD1 25,809 25,859 26,170
AUD 16,319 16,469 17,533
EUR 28,851 29,001 30,165
CAD 18,255 18,355 19,669
SGD 19,685 19,835 20,645
JPY 175.34 176.84 182.03
GBP 33,973 34,123 34,902
XAU 11,649,000 0 12,051,000
CNY 0 3,434 0
THB 0 765 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 09/05/2025 17:00