Lộ diện động lực tăng trưởng mới của Trung Quốc

08:26 | 18/02/2024

212 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trung Quốc đặt kỳ vọng cao vào lực lượng sản xuất mới trong việc hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững.
Lộ diện động lực tăng trưởng mới của Trung Quốc | Quốc tế
Trung Quốc nỗ lực đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất mới

Trong thời gian gần đây, các nhà lãnh đạo và truyền thông Trung Quốc thường xuyên sử dụng cụm từ “lực lượng sản xuất mới” khi thảo luận về cách khôi phục và chuyển đổi nền kinh tế. Cụm từ này càng nổi bật hơn sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình gọi khái niệm này là yếu tố hàng đầu để thúc đẩy sự phát triển chất lượng cao của nền kinh tế Trung Quốc.

Được biết, Chủ tịch Tập Cận Bình đưa ra khái niệm này lần đầu tiên trong chuyến thăm tỉnh Hắc Long Giang ở phía Đông Bắc Trung Quốc vào tháng 9 năm ngoái, khi ông liệt kê “năng lượng mới, vật liệu mới và sản xuất công nghệ cao” là những ngành công nghiệp cần trở thành lực lượng sản xuất mới.

Trung Quốc từ lâu đã xác định phát triển chất lượng cao và đổi mới công nghệ là động lực mới trong chiến lược tăng trưởng nhằm giúp nền kinh tế nước này tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nhưng năm vừa qua đặc biệt khó khăn đối với nền kinh tế Trung Quốc, vốn phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực sản xuất và bất động sản.

Đất nước này cũng đang bị ảnh hưởng bởi thị trường bất động sản suy yếu, đầu tư tư nhân sụt giảm và dân số già hóa - tất cả những điều này đã cản trở sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc sau ba năm kiểm soát đại dịch nghiêm ngặt. Áp lực từ bên ngoài cũng là một yếu tố, với nhu cầu toàn cầu yếu và các biện pháp hạn chế thương mại từ Mỹ.

“Các lực lượng sản xuất mới sẽ dẫn đầu sự đổi mới và phá vỡ mô hình phát triển khỏi các động lực kinh tế truyền thống,” Chủ tịch Tập Cận Bình nói vào ngày 31/1 khi chủ trì một phiên thảo luận của Bộ Chính trị Trung Quốc. Ông Tập cho biết: "Sự đổi mới độc đáo và đột phá trong nước sẽ ươm tạo các ngành công nghiệp mới, mô hình mới và động lực mới để giúp đất nước đạt được sự tự chủ về khoa học và công nghệ nhằm chiến đấu trong cuộc chiến về các công nghệ cốt lõi”.

“Lực lượng sản xuất mới sẽ dẫn đầu trong việc xây dựng một mô hình công nghiệp hiện đại hóa,” ông Tập nói thêm, đồng thời cho biết thêm rằng sự đổi mới phải được áp dụng một cách thiết thực cho các chuỗi công nghiệp và giá trị. Đầu tư xanh, nền kinh tế kỹ thuật số, khoa học và công nghệ đều được coi là chất xúc tác tiềm năng cho tăng trưởng và gắn liền với khái niệm này.

Theo báo cáo từ China Central, sau chuyến thăm của ông Tập, tỉnh Hắc Long Giang đã công bố kế hoạch nhằm đẩy nhanh việc hình thành lực lượng sản xuất mới, đồng thời xác định 24 ngành công nghiệp, trong đó có nhiều ngành liên kết với sản xuất công nghệ cao để nhận được nhiều hỗ trợ hơn.

Tuy nhiên, sản lượng của lĩnh vực sản xuất công nghệ cao của Trung Quốc chỉ tăng 2,7% trong năm ngoái, mức tăng trưởng thấp nhất kể từ khi Cục Thống kê Quốc gia bắt đầu công bố dữ liệu vào năm 2018. Trong khi đầu tư vào sản xuất công nghệ cao tăng 9,9% vào năm ngoái, đây cũng là tốc độ tăng trưởng chậm nhất kể từ năm 2015.

Trong chuyến thăm của Thủ tướng Lý Cường tới Thiểm Tây, một tỉnh công nghiệp hóa mạnh ở phía Tây Bắc, ông đã chỉ ra những thách thức khác, đồng thời kêu gọi các lực lượng sản xuất mới để thúc đẩy nền kinh tế. Ông Lý cho biết các nhà sản xuất nên sẵn sàng chi tiền cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) để cạnh tranh với các công ty trên thị trường toàn cầu. Hiện, Trung Quốc đã trở thành nước chi tiêu lớn thứ hai cho R&D; mặc dù vậy nước này vẫn tụt hậu so với Mỹ.

Lộ diện động lực tăng trưởng mới của Trung Quốc | Quốc tế
Trung Quốc đang nỗ lực tập trung vào các động lực tăng trưởng mới dựa trên những đột phá và đổi mới về khoa học công nghệ.

Theo ông Huang Qifan, cựu Thị trưởng Trùng Khánh, điểm nghẽn lớn nhất của Trung Quốc trong quá trình hiện đại hóa nền kinh tế nằm ở những hạn chế trong việc phát triển các dịch vụ sản xuất, chẳng hạn như điện toán đám mây, máy tính hoặc tư vấn tài chính và pháp lý.

Ông nói với SCMP: “Nếu một quốc gia có ngành sản xuất lớn nhưng tỷ trọng dịch vụ sản xuất thấp, thì chỉ có thể sản xuất các sản phẩm có giá trị trung bình đến thấp. Chúng ta có thể sản xuất thiết bị mới nhất cho mạng 5G, nhưng chúng ta không thể sử dụng nó. Điều này giống như việc xây dựng một bến cảng nhưng không có người điều hành, sửa đường nhưng không có ô tô”.

Jon Taylor, Trưởng khoa khoa học chính trị của Đại học Texas ở San Antonio nhận định, việc Trung Quốc sử dụng cụm từ lực lượng sản xuất mới nhấn mạnh giai đoạn tiếp theo của việc thương mại hóa công nghệ và khoa học khi Trung Quốc tiếp tục theo đuổi việc củng cố khả năng tự lực về công nghệ cốt lõi.

“Chủ tịch Tập không còn chấp nhận một nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, do đó ông ấy nhấn mạnh vào việc mở rộng năng lực đổi mới công nghệ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang suy nghĩ lại một số khía cạnh quan trọng về cách điều hành nền kinh tế, bao gồm quyền sở hữu nhà nước và phân bổ nguồn lực cho các động lực kinh tế mới", ông Jon chỉ ra và nhấn mạnh thế giới sẽ nhanh chóng cảm nhận sự thay đổi lớn trong cơ cấu sản xuất của Trung Quốc trong thời gian tới.

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Hai lực đẩy kinh tế Trung Quốc năm 2024

Hai lực đẩy kinh tế Trung Quốc năm 2024

Các chuyên gia Trung Quốc kỳ vọng, tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sẽ được thúc đẩy bởi tiêu dùng và đầu tư trong nước trong năm 2024.

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,500 ▼400K 120,500 ▼400K
AVPL/SJC HCM 118,500 ▼400K 120,500 ▼400K
AVPL/SJC ĐN 118,500 ▼400K 120,500 ▼400K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,780 ▼50K 11,200 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,770 ▼50K 11,190 ▼50K
Cập nhật: 07/07/2025 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
TPHCM - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Hà Nội - PNJ 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Hà Nội - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Đà Nẵng - PNJ 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Đà Nẵng - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Miền Tây - PNJ 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Miền Tây - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.200 ▼600K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.200 ▼600K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.400 ▼700K 115.900 ▼700K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.280 ▼700K 115.780 ▼700K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.570 ▼700K 115.070 ▼700K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.340 ▼690K 114.840 ▼690K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.580 ▼520K 87.080 ▼520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.450 ▼410K 67.950 ▼410K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.860 ▼300K 48.360 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.760 ▼650K 106.260 ▼650K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.350 ▼430K 70.850 ▼430K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.990 ▼450K 75.490 ▼450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.460 ▼480K 78.960 ▼480K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.110 ▼270K 43.610 ▼270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.900 ▼230K 38.400 ▼230K
Cập nhật: 07/07/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,190 ▼80K 11,640 ▼70K
Trang sức 99.9 11,180 ▼80K 11,630 ▼70K
NL 99.99 10,760 ▼90K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,760 ▼80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,400 ▼70K 11,700 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,400 ▼70K 11,700 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,400 ▼70K 11,700 ▼70K
Miếng SJC Thái Bình 11,850 ▼40K 12,050 ▼40K
Miếng SJC Nghệ An 11,850 ▼40K 12,050 ▼40K
Miếng SJC Hà Nội 11,850 ▼40K 12,050 ▼40K
Cập nhật: 07/07/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16522 16791 17366
CAD 18660 18938 19555
CHF 32250 32633 33280
CNY 0 3570 3690
EUR 30135 30409 31434
GBP 34826 35219 36156
HKD 0 3200 3402
JPY 173 177 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15441 16029
SGD 19951 20233 20749
THB 719 782 835
USD (1,2) 25883 0 0
USD (5,10,20) 25922 0 0
USD (50,100) 25951 25985 26325
Cập nhật: 07/07/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,970 25,970 26,330
USD(1-2-5) 24,931 - -
USD(10-20) 24,931 - -
GBP 35,222 35,317 36,218
HKD 3,272 3,282 3,381
CHF 32,542 32,643 33,460
JPY 177.61 177.93 185.42
THB 768.15 777.64 831.95
AUD 16,815 16,875 17,346
CAD 18,900 18,960 19,514
SGD 20,112 20,175 20,850
SEK - 2,687 2,781
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,057 4,197
NOK - 2,550 2,638
CNY - 3,599 3,697
RUB - - -
NZD 15,438 15,582 16,035
KRW 17.67 18.43 19.89
EUR 30,360 30,384 31,620
TWD 814.47 - 986.02
MYR 5,779.41 - 6,519.1
SAR - 6,854.94 7,216.17
KWD - 83,317 88,726
XAU - - -
Cập nhật: 07/07/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,000 26,005 26,345
EUR 30,214 30,335 31,464
GBP 35,065 35,206 36,201
HKD 3,269 3,282 3,388
CHF 32,364 32,494 33,428
JPY 177.18 177.89 185.29
AUD 16,770 16,837 17,378
SGD 20,172 20,253 20,806
THB 784 787 823
CAD 18,884 18,960 19,492
NZD 15,547 16,056
KRW 18.37 20.18
Cập nhật: 07/07/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25955 25955 26315
AUD 16716 16816 17384
CAD 18849 18949 19500
CHF 32503 32533 33424
CNY 0 3610.4 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30419 30519 31291
GBP 35138 35188 36290
HKD 0 3330 0
JPY 177.26 178.26 184.81
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.9 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15572 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20104 20234 20962
THB 0 749.4 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12050000
XBJ 10800000 10800000 12050000
Cập nhật: 07/07/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,990 26,040 26,368
USD20 25,990 26,040 26,368
USD1 25,990 26,040 26,368
AUD 16,793 16,943 18,016
EUR 30,503 30,653 31,837
CAD 18,814 18,914 20,234
SGD 20,218 20,368 20,846
JPY 178.29 179.79 184.44
GBP 35,277 35,427 36,225
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,501 0
THB 0 787 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/07/2025 10:00