“Cuộc chiến nảy lửa” đất hiếm

Kỳ I: Ai đang dẫn đầu cuộc chơi?

06:34 | 28/08/2023

159 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Là một trong những nguyên liệu chiến lược, đất hiếm có rất nhiều ứng dụng và vai trò quan trọng trong sản xuất thiết bị công nghệ cao.
Khai thác đất hiếm tại mỏ Bayan Obo (Bạch Vân Ngạc Bác) ở Nội Mông, Trung Quốc
Khai thác đất hiếm tại mỏ Bayan Obo (Bạch Vân Ngạc Bác) ở Nội Mông, Trung Quốc. Ảnh: Reuters

Dữ liệu của tổ chức nghiên cứu địa chất Geological Survey của Mỹ ước tính trữ lượng đất hiếm của toàn thế giới vào khoảng 120 triệu tấn, trong đó Trung Quốc sở hữu 44 triệu tấn, hơn 22 triệu tấn ở Việt Nam, 22 triệu tấn ở Brazil, 18 triệu tấn ở Nga...

Với những lo lắng về chuỗi cung ứng ngày càng gia tăng, thế giới đang bắt đầu nghiên cứu vế những quốc gia có trữ lượng đất hiếm cao nhất.

Theo một số chuyên gia địa chất, có một vài quốc gia có sản lượng khai thác đất hiếm thấp nhưng có trữ lượng cao. Trường hợp điển hình là các mỏ ở Brazil chỉ sản xuất được 80 tấn nguyên tố đất hiếm vào năm 2022, nhưng trữ lượng đất hiếm của quốc gia này lại cao thứ ba trên thế giới. Có thể những quốc gia như thế này sẽ trở thành những "người chơi" lớn trong tương lai.

Dẫn đầu bảng xếp hạng vẫn là Trung Quốc. Không có gì đáng ngạc nhiên khi Trung Quốc có trữ lượng đất hiếm cao thế giới nhất với 44 triệu tấn. Đất nước này cũng là nhà sản xuất đất hiếm hàng đầu thế giới vào năm 2022 với sản lượng 210.000 tấn.

Ông Ross Embleton, nhà phân tích cấp cao về đất hiếm tại Wood Mackenzie, cho biết: “Bất chấp việc khai thác đất hiếm đang diễn ra ở nhiều nơi, Trung Quốc vẫn là nhà cung cấp chiếm ưu thế tuyệt đối".

Mặc dù ở vị trí hàng đầu, Trung Quốc vẫn tập trung vào việc đảm bảo rằng nguồn dự trữ đất hiếm được duy trì ở mức cao. Trở lại năm 2012, quốc gia châu Á này tuyên bố rằng trữ lượng đất hiếm của họ đang suy giảm; sau đó quốc gia này đưa ra tuyên bố sẽ tăng lượng dự trữ đất hiếm trong nước bằng cách thiết lập kho dự trữ chiến lược vào năm 2016.

Trong quá khứ, sự thống trị của Trung Quốc trong cả sản xuất và dự trữ các nguyên tố đất hiếm đã làm các chuyên gia lo ngại. Giá đất hiếm đã tăng mạnh khi nước này cắt giảm xuất khẩu vào năm 2010, dẫn đến việc nhiều nước phải tìm cách đảm bảo nguồn cung từ các thị trường khác.

Đứng thứ hai trong danh sách là Việt Nam. Dữ liệu cho thấy, trữ lượng đất hiếm ở Việt Nam đạt tới hơn 22 triệu tấn, đứng thứ 2 thế giới. Phần lớn lượng đất hiếm trong nước có thể được tìm thấy ở các mỏ quặng nguyên sinh, với một lượng nhỏ hơn phân bổ ở các mỏ sa khoáng ven biển.

Sản lượng đất hiếm của Việt Nam năm 2021 chỉ ở mức rất nhỏ, khoảng 400 tấn, nhưng đã tăng đáng kể vào năm 2022, đạt 4.300 tấn. Vào tháng 12/2022, Bộ Công Thương Việt Nam đã ký thỏa thuận với Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc nhằm tăng cường hợp tác về đất hiếm và các khoáng sản cốt lõi khác, đồng thời giúp củng cố chuỗi cung ứng đất hiếm toàn cầu.

Tỉnh Saskatchewan của Canada cũng đã tìm kiếm cơ hội hợp tác về "năng lượng xanh, khai thác bền vững và đất hiếm" với Việt Nam khi cử một phái đoàn thương mại đến làm việc với Việt Nam vào tháng 12/2022.

Brazil và Nga có trữ lượng đất hiếm lớn thứ ba trên toàn cầu. Brazil không phải là nhà sản xuất đất hiếm lớn vào năm 2022, với sản lượng giảm xuống còn 80 tấn. Một mỏ đất hiếm trị giá 8,4 tỷ USD đã được tìm thấy ở Brazil vào năm 2012, mặc dù phát hiện này chưa mang lại nhiều kết quả.

Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lên đến 22 triệu tấn. Ảnh: Reuters
Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lên đến 22 triệu tấn. Ảnh: Reuters

Trong khi đó, Nga sản xuất 2.600 tấn đất hiếm vào năm 2022, nhiều hơn Brazil và Việt Nam. Trước đó, vào năm 2020, Chính phủ Nga chia sẻ kế hoạch đầu tư 1,5 tỷ USD nhằm cạnh tranh với Trung Quốc trên thị trường đất hiếm. Tuy nhiên, việc Nga tấn công Ukraine đã gây ra một số lo ngại về khả năng gián đoạn chuỗi cung ứng đất hiếm ở Mỹ và châu Âu, đồng thời vẫn còn phải xem xét chiến tranh sẽ ảnh hưởng như thế nào đến kế hoạch phát triển đất hiếm trong nước của nước này.

Đứng thứ tư trong danh sách các quốc gia có sản lượng đất hiếm lớn nhất toàn cầu Ấn Độ. Trữ lượng đất hiếm của quốc gia này ở mức 6,9 triệu tấn và sản xuất được 2.900 tấn đất hiếm vào năm 2022. Ấn Độ cũng sở hữu gần 35% trữ lượng khoáng sản cát và bãi biển của thế giới, là nguồn cung cấp đất hiếm đáng kể.

Mặc dù Australia là quốc gia khai thác đất hiếm lớn thứ ba thế giới vào năm 2022 với sản lượng 18.000 tấn nhưng trữ lượng đất hiếm của quốc gia này chỉ đứng thứ năm trên thế giới. Hiện tại, trữ lượng của Australia ở mức 4,2 triệu tấn.

Australia bắt đầu tiến hành khai thác đất hiếm từ năm 2007, nhưng việc khai thác dự kiến sẽ tăng lên trong thời gian tới. Hiện công ty Lynas Rare Earths của Australia là nhà sản xuất duy nhất trên thế giới về vật liệu đất hiếm phân tách bên ngoài Trung Quốc. Được biết, công ty này đã hợp tác với Mỹ và Nhật Bản để củng cố sự cạnh tranh với Trung Quốc trong lĩnh vực này.

Mặc dù đất hiếm không hiếm như cái tên của nó nhưng việc khai thác khá khó khăn, đặc biệt là với trường hợp đất hiếm nặng, vì các thân quặng chứa chúng ít phổ biến hơn so với đất hiếm nhẹ. Một trở ngại khác đối với đất hiếm là quá trình phân tách. Các nguyên tố đất hiếm đều có tính chất hóa học tương tự nhau nên chúng rất khó phân tách, và làm quá trình này trở nên tốn kém.

Cuối cùng, khai thác đất hiếm có thể gây tổn hại rất lớn đến môi trường, đặc biệt là khi nói đến các mỏ bất hợp pháp và không được kiểm soát. Báo cáo của Global Witness chỉ ra, có hơn 100 vụ lở đất đã xảy ra ở khu vực Cám Châu của Trung Quốc do hoạt động khai thác đất hiếm và thiệt hại đối với các ngọn núi của Myanmar cũng rất đáng kể...

Tuy nhiên, do đất hiếm được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, đặc biệt là công nghệ cao, quân sự... , nên nhiều quốc gia bất chấp hệ luỵ trong khai thác khoáng sản này. Do đó, "cuộc chiến" đất hiếm sẽ ngày càng khốc liệt hơn nữa.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

"Mặt trận" mới cho cuộc cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung
Pháp lập quỹ đầu tư kim loại hiếmPháp lập quỹ đầu tư kim loại hiếm
Đây là lý do nhiều cường quốc đua nhau lên Mặt TrăngĐây là lý do nhiều cường quốc đua nhau lên Mặt Trăng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,800 120,300
AVPL/SJC HCM 117,800 120,300
AVPL/SJC ĐN 117,800 120,300
Nguyên liệu 9999 - HN 10,950 11,400
Nguyên liệu 999 - HN 10,940 11,390
Cập nhật: 15/06/2025 09:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.800
TPHCM - SJC 117.800 120.300
Hà Nội - PNJ 114.000 116.800
Hà Nội - SJC 117.800 120.300
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.800
Đà Nẵng - SJC 117.800 120.300
Miền Tây - PNJ 114.000 116.800
Miền Tây - SJC 117.800 120.300
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.800
Giá vàng nữ trang - SJC 117.800 120.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.800 120.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.200 115.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.080 115.580
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.370 114.870
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.140 114.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.430 86.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.340 67.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.780 48.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.580 106.080
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.230 70.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.860 75.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.330 78.830
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.040 43.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.830 38.330
Cập nhật: 15/06/2025 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,240 11,690
Trang sức 99.9 11,230 11,680
NL 99.99 10,835
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,835
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 11,750
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 11,750
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 11,750
Miếng SJC Thái Bình 11,780 12,030
Miếng SJC Nghệ An 11,780 12,030
Miếng SJC Hà Nội 11,780 12,030
Cập nhật: 15/06/2025 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16383 16651 17241
CAD 18658 18936 19561
CHF 31488 31868 32528
CNY 0 3530 3670
EUR 29487 29758 30800
GBP 34561 34953 35905
HKD 0 3191 3394
JPY 174 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15956
SGD 19797 20079 20619
THB 719 782 837
USD (1,2) 25808 0 0
USD (5,10,20) 25848 0 0
USD (50,100) 25876 25910 26223
Cập nhật: 15/06/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,863 25,863 26,223
USD(1-2-5) 24,828 - -
USD(10-20) 24,828 - -
GBP 34,799 34,893 35,778
HKD 3,259 3,269 3,368
CHF 31,733 31,831 32,641
JPY 178.08 178.4 185.93
THB 765.22 774.67 828.83
AUD 16,581 16,641 17,106
CAD 18,780 18,841 19,393
SGD 19,914 19,976 20,654
SEK - 2,689 2,782
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,959 4,095
NOK - 2,560 2,649
CNY - 3,579 3,676
RUB - - -
NZD 15,303 15,445 15,896
KRW 17.58 18.33 19.79
EUR 29,608 29,632 30,860
TWD 795.57 - 963.17
MYR 5,733.92 - 6,472.71
SAR - 6,817.24 7,177.66
KWD - 82,865 88,106
XAU - - -
Cập nhật: 15/06/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,870 25,880 26,220
EUR 29,490 29,608 30,726
GBP 34,694 34,833 35,828
HKD 3,254 3,267 3,372
CHF 31,692 31,819 32,744
JPY 177.74 178.45 185.89
AUD 16,569 16,636 17,169
SGD 19,988 20,068 20,616
THB 782 785 820
CAD 18,786 18,861 19,391
NZD 15,472 15,980
KRW 18.24 20.09
Cập nhật: 15/06/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25920 25920 26220
AUD 16546 16646 17219
CAD 18784 18884 19441
CHF 31659 31689 32578
CNY 0 3594.3 0
CZK 0 1168 0
DKK 0 4040 0
EUR 29698 29798 30571
GBP 34820 34870 35972
HKD 0 3320 0
JPY 177.44 178.44 184.97
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6390 0
NOK 0 2610 0
NZD 0 15465 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2765 0
SGD 19941 20071 20802
THB 0 748.6 0
TWD 0 880 0
XAU 11400000 11400000 12000000
XBJ 10000000 10000000 12000000
Cập nhật: 15/06/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,890 25,940 26,200
USD20 25,890 25,940 26,200
USD1 25,890 25,940 26,200
AUD 16,595 16,745 17,815
EUR 29,742 29,892 31,068
CAD 18,725 18,825 20,141
SGD 20,018 20,168 20,645
JPY 177.87 179.37 184.02
GBP 34,903 35,053 35,844
XAU 0 117,480,000 0
CNY 0 3,479 0
THB 0 784 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/06/2025 09:00