“Cuộc chiến nảy lửa” đất hiếm

Kỳ VII: Thế thống trị của Trung Quốc sẽ bị phá vỡ?

13:30 | 02/09/2023

411 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nhiều quốc gia đã tự khai thác, đa dạng chuỗi cung ứng đất hiếm, có nguy cơ phá vỡ thế thống trị của Trung Quốc.
Kỳ V: Ám ảnh quá khứ đau buồnKỳ V: Ám ảnh quá khứ đau buồn
Kỳ VI: Cần chiến lược cho đất hiếm Việt NamKỳ VI: Cần chiến lược cho đất hiếm Việt Nam
Năm 2022, nước này chiếm khoảng 70% sản lượng - theo Khảo sát Địa chất Mỹ.
Năm 2022, Trung Quốc chiếm khoảng 70% sản lượng đất hiếm toàn cầu- theo Khảo sát Địa chất Mỹ.

Tính đến nay, Trung Quốc là nhà sản xuất đất hiếm lớn nhất thế giới nhờ nỗ lực phát triển ngành công nghiệp này trong nhiều thập kỷ. Năm 2022, nước này chiếm khoảng 70% sản lượng - theo Khảo sát Địa chất Mỹ. Bắc Kinh đã thể hiện sự sẵn sàng tận dụng sức ảnh hưởng của mình trong ngành đất hiếm toàn cầu để theo đuổi các mục tiêu chính trị, gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với nhiều quốc gia phụ thuộc vào đất hiếm Trung Quốc.

Sự thống trị của Trung Quốc trong ngành đất hiếm là kết quả của nhiều thập kỷ thực hiện các chính sách, cải cách công nghiệp để nâng cao hiệu quả khai thác, bảo vệ môi trường và trấn áp hoạt động khai thác trái phép. Những biện pháp này đã thành công trong việc phát triển ngành công nghiệp đất hiếm của Trung Quốc, cho phép Trung Quốc chiếm phần lớn thị trường đất hiếm toàn cầu. Bên cạnh đó, nguồn cung đất hiếm trong nước giá rẻ đã mang lại cho các nhà sản xuất Trung Quốc cơ hội mở rộng quy mô các sản phẩm chủ chốt.

Nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã từng nói: “Trung Đông có dầu mỏ, còn Trung Quốc có đất hiếm”. Các chuyên gia đánh giá rằng Trung Quốc đã thể hiện sự sẵn sàng tận dụng ảnh hưởng của mình trong ngành đất hiếm toàn cầu để theo đuổi các mục tiêu chính trị. Chuyên gia nói thêm, Trung Quốc đang có kế hoạch đảm bảo an ninh đất hiếm để thống trị nguồn cung toàn cầu và gây sức ép lên Mỹ trong cuộc cạnh tranh giữa 2 nước. Trước đây, trong bối cảnh thương mại Mỹ - Trung căng thẳng, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến thăm một cơ sở đất hiếm ở tỉnh Giang Tây, điều mà nhiều người hiểu là lời cảnh báo đối với Mỹ.

Dù một số cường quốc đã tìm cách hạn chế nguy cơ bị gián đoạn chuỗi cung ứng đất hiếm bắt nguồn từ Trung Quốc, họ vẫn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu đất hiếm của quốc gia này. Điển hình như các nhà hoạch định chính sách ở Mỹ đặc biệt lo ngại về nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng đối với ngành công nghiệp quốc phòng của họ, vốn sử dụng đất hiếm trong nhiều công nghệ, từ sóng siêu âm và thiết bị liên lạc đến tên lửa và động cơ phản lực.

Trong những năm gần đây, Mỹ đã tìm cách tái lập vị thế là một trong những nhà cung cấp đất hiếm trên thế giới. Sau khi đóng cửa nhiều năm, mỏ đất hiếm duy nhất của Mỹ nằm ở Mountain Pass, California, đã có chủ sở hữu mới vào năm 2017 và tiếp tục sản xuất. Tuy nhiên, số lượng đất hiếm mà công ty này khai thác vẫn được gửi đến Trung Quốc để xử lý. Chính phủ Mỹ cũng đã thực hiện những thay đổi chính sách đáng chú ý, bao gồm việc bổ sung đất hiếm vào danh sách các khoáng sản được coi là quan trọng đối với an ninh kinh tế và quốc gia vào tháng 5 năm 2018.

Dù Trung Quốc tiếp tục nỗ lực duy trì sự thống trị trong ngành đất hiếm toàn cầu, nhưng khả năng Bắc Kinh đơn phương phá vỡ chuỗi cung ứng đất hiếm toàn cầu có thể sẽ bị xói mòn trong những năm tới. Bởi vì, một số sáng kiến đang được tiến hành có thể thành công trong việc thành lập các nhà cung cấp đất hiếm mới bên ngoài Trung Quốc. Nhiều quốc gia đang tìm cách giảm nhập khẩu đất hiếm từ Trung Quốc. Đặc biệt, EU đã tài trợ cho một sáng kiến phát triển quy trình tái chế chất thải nam châm vĩnh cửu thành hợp kim và vật liệu mới, nhằm mục đích giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc và giúp châu Âu đáp ứng các mục tiêu về biến đổi khí hậu.

Tại Mỹ, công ty MP Materials đã bắt đầu tự xử lý các khoáng sản đất hiếm được khai thác thay vì xử lý tại Trung Quốc.
Tại Mỹ, công ty MP Materials đã bắt đầu tự xử lý các khoáng sản đất hiếm được khai thác thay vì xử lý tại Trung Quốc.

Hoạt động khai thác nguyên liệu đất hiếm thô bên ngoài Trung Quốc đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây khi mỏ Mountain Pass của Mỹ và các mỏ khác trên thế giới tăng sản lượng. Kết quả là tỷ trọng sản lượng khai thác đất hiếm toàn cầu của Trung Quốc đã giảm mạnh, từ mức cao 97,7% năm 2010 xuống còn 62,9% vào năm 2019 - mức thấp nhất kể từ năm 1995. Tỷ trọng dự trữ đất hiếm toàn cầu của Trung Quốc cũng giảm từ 50% xuống 36,7% trong thời gian qua. Tuy nhiên, vị thế của Trung Quốc với tư cách là nhà cung cấp oxit, kim loại và nam châm vĩnh cửu ưu việt vẫn chưa bị suy giảm, nhưng điều này có thể xảy ra trong những năm tới.

Tại Mỹ, công ty MP Materials đã bắt đầu tự xử lý các khoáng sản đất hiếm được khai thác thay vì xử lý tại Trung Quốc. Ông James Litinsky, đồng Chủ tịch MP Materials, hãng sở hữu mỏ đất hiếm Mountain Pass đánh giá: “Hãy thừa nhận thực tế rằng Trung Quốc thống trị chuỗi cung ứng đất hiếm và họ sẽ tiếp tục thống trị nó trong nhiều năm nữa”. Tuy nhiên, ông cho hay Mountain Pass có thể tự sản xuất sản phẩm đất hiếm riêng mà không cần Trung Quốc.

Ngoài ra, vào tháng 4/2020, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã bật đèn xanh tài trợ ban đầu cho liên doanh giữa Tập đoàn Lynas của Australia và Tập đoàn Blue Line có trụ sở tại Hoa Kỳ để xây dựng một cơ sở xử lý đất hiếm ở Texas. Điều này cho phép Tập đoàn Lynas vận chuyển nguyên liệu đất hiếm từ cơ sở chế biến ở Malaysia sang Mỹ để xử lý, thay vì đưa tới Trung Quốc. Chính phủ Nhật Bản (thông qua JOGMEC) đang tìm cách đầu tư vào các sáng kiến của Hoa Kỳ và Australia, có thể bao gồm cả cơ sở mới ở Texas. Những bước đi này là một phần trong mục tiêu đã được Tokyo công bố nhằm giảm hơn nữa sự phụ thuộc của Nhật Bản vào nhập khẩu đất hiếm của Trung Quốc xuống dưới 50% vào năm 2025.

Dù chưa rõ liệu những bước đi nói trên của nhiều quốc gia có đủ sức đe dọa đến địa vị thống trị của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng đất hiếm toàn cầu hay không, nhưng nhiều chuyên gia có lý do để tin tưởng vào một tương lai mà các thế lực khác trỗi dậy sẽ phá thế độc tôn của Trung Quốc trên thị trường đất hiếm toàn cầu.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Sau Trung Quốc, đến Trung Đông bị Mỹ hạn chế xuất khẩu chip AISau Trung Quốc, đến Trung Đông bị Mỹ hạn chế xuất khẩu chip AI
"Ông nói Đông, bà nói Tây", Mỹ - Trung Quốc vẫn chưa thật sự muốn đến với nhau?
Mỹ chơi “bài độc” với Trung Quốc!Mỹ chơi “bài độc” với Trung Quốc!

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 120,900
AVPL/SJC HCM 118,900 120,900
AVPL/SJC ĐN 118,900 120,900
Nguyên liệu 9999 - HN 10,830 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,820 11,240
Cập nhật: 07/07/2025 05:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 117.400
TPHCM - SJC 118.900 120.900
Hà Nội - PNJ 114.800 117.400
Hà Nội - SJC 118.900 120.900
Đà Nẵng - PNJ 114.800 117.400
Đà Nẵng - SJC 118.900 120.900
Miền Tây - PNJ 114.800 117.400
Miền Tây - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 116.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 115.770
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 115.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 68.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 48.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 106.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 71.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 75.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 79.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 43.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 38.630
Cập nhật: 07/07/2025 05:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,710
Trang sức 99.9 11,260 11,700
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,470 11,770
Miếng SJC Thái Bình 11,890 12,090
Miếng SJC Nghệ An 11,890 12,090
Miếng SJC Hà Nội 11,890 12,090
Cập nhật: 07/07/2025 05:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16611 16880 17475
CAD 18701 18979 19604
CHF 32300 32683 33345
CNY 0 3570 3690
EUR 30185 30459 31504
GBP 34919 35312 36264
HKD 0 3202 3406
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15550 16152
SGD 19985 20268 20809
THB 723 786 842
USD (1,2) 25902 0 0
USD (5,10,20) 25942 0 0
USD (50,100) 25971 26005 26360
Cập nhật: 07/07/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,990 25,990 26,350
USD(1-2-5) 24,950 - -
USD(10-20) 24,950 - -
GBP 35,342 35,438 36,328
HKD 3,275 3,285 3,384
CHF 32,596 32,697 33,515
JPY 177.99 178.31 185.87
THB 771.36 780.88 835.42
AUD 16,913 16,974 17,452
CAD 18,967 19,028 19,583
SGD 20,159 20,222 20,899
SEK - 2,691 2,784
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,062 4,202
NOK - 2,553 2,642
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,540 15,684 16,143
KRW 17.73 18.49 19.96
EUR 30,389 30,413 31,655
TWD 816.31 - 987.42
MYR 5,792.07 - 6,533.33
SAR - 6,861.31 7,221.27
KWD - 83,422 88,692
XAU - - -
Cập nhật: 07/07/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,010 26,350
EUR 30,234 30,355 31,484
GBP 35,175 35,316 36,313
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 32,425 32,555 33,488
JPY 177.34 178.05 185.45
AUD 16,872 16,940 17,483
SGD 20,199 20,280 20,834
THB 788 791 827
CAD 18,952 19,028 19,563
NZD 15,655 16,166
KRW 18.42 20.23
Cập nhật: 07/07/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26350
AUD 16806 16906 17479
CAD 18901 19001 19558
CHF 32579 32609 33495
CNY 0 3618.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30473 30573 31345
GBP 35227 35277 36388
HKD 0 3330 0
JPY 177.81 178.81 185.33
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15663 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20162 20292 21020
THB 0 753.3 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12090000
XBJ 10800000 10800000 12090000
Cập nhật: 07/07/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,000 26,050 26,300
USD20 26,000 26,050 26,300
USD1 26,000 26,050 26,300
AUD 16,854 17,004 18,070
EUR 30,513 30,663 31,841
CAD 18,851 18,951 20,273
SGD 20,242 20,392 20,865
JPY 178.35 179.85 184.5
GBP 35,327 35,477 36,265
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,503 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/07/2025 05:00