Không nên kéo dài việc giữ giá điện

22:10 | 09/02/2023

|
(PetroTimes) - Đây là ý kiến trao đổi của ông Nguyễn Tiến Thoả - Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), xung quanh vấn đề khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân vừa được phê duyệt tại Quyết định số 02/QĐ-TTg ngày 03/02/2023, cũng như việc điều chỉnh giá điện trong thời gian tới để đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế vừa phù hợp với sức chịu đựng của doanh nghiệp và người dân, vừa góp phần ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát.

PV: Thưa ông, ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành “Khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân”, Bộ Công Thương cũng đã có lý giải liên quan đến các yếu tố tác động tới chi phí sản xuất, kinh doanh điện thời gian qua dẫn đến khó khăn của các doanh nghiệp (DN) sản xuất, kinh doanh điện, đặc biệt là EVN. Dưới góc độ chuyên gia về quản lý giá - thẩm định giá, ông nhìn nhận như thế nào về thực tế này?

Không nên kéo dài việc giữ giá điện
Ông Nguyễn Tiến Thỏa

Ông Nguyễn Tiến Thoả: Qua theo dõi tình hình kinh tế thế giới trong thời gian vừa qua, chúng ta đều biết là năm 2022 và hiện nay tình hình kinh tế thế giới có rất nhiều biến động. Trước tác động của cuộc xung đột tại Ukraine và các yếu tố cung - cầu trên thị trường, giá các loại nhiên liệu cung ứng cho sản xuất điện như là than, xăng dầu, khí đều tăng rất cao so với trước, dẫn đến giá điện ở nhiều nước tăng khá cao.

Ở nước ta, chi phí nhiên liệu mà chúng ta phải nhập khẩu để sản xuất điện cũng tăng theo giá thế giới, do đó đã làm cho chi phí phát điện tăng theo. Tính toán cho thấy chi phí phát điện chiếm tới 80% trong giá bán điện.

Cụ thể, giá than thế giới năm 2022 đã tăng gấp 6 lần so với năm 2020 và tăng gấp khoảng 2,6 lần so với năm 2021. Việc giá than nhập khẩu tăng đã làm cho chi phí mua điện từ các nhà máy sử dụng than nhập khẩu và các nhà máy điện sử dụng than pha trộn giữa than nhập khẩu và trong nước năm 2022 tăng khoảng 25% so với năm 2021, tức là từ khoảng 1.635 đồng/kWh lên 2.043 đồng kWh. Đối với giá dầu (là cơ sở để tính toán giá khí cho các nhà máy sử dụng nhiên liệu khí), năm 2022 tăng khoảng 2,2 lần so với năm 2020 và tăng khoảng 1,3 lần so với năm 2021. Việc tăng giá đó đã làm cho giá điện bình quân của các nhà máy tua bin khí tăng khoảng 11,31%, tức là từ khoảng 1.620 đồng/kWh lên 1.843 đồng/kWh.

Như vậy, khi chi phí sản xuất kinh doanh điện tăng, trong khi giá bán điện bình quân hiện hành giữ ổn định từ năm 2019 cho đến nay. Điều này đã làm cho giá hiện hành không bù đắp được chi phí sản xuất kinh doanh, dẫn đến ngành Điện gặp khá nhiều khó khăn. Sản xuất kinh doanh bị lỗ là điều không tránh khỏi.

PV:Thưa ông, với các diễn biến thực tế của thị trường như vậy cho thấy việc điều chỉnh giá bán lẻ điện trong năm nay là không thể trì hoãn. Trong bối cảnh các tác động ở cả bên trong và bên ngoài tới tăng trưởng và lạm phát là rất lớn, theo ông, việc điều chỉnh giá điện ở mức nào để vừa phù hợp với sức chịu đựng của người dân và doanh nghiệp, vừa góp phần ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát?

Ông Nguyễn Tiến Thoả: Chi phí sản xuất, kinh doanh điện thực tế đã tăng quá cao, tôi cho rằng, cần phải xem xét điều chỉnh giá bán điện lên mức độ phù hợp. Nếu không thì ngành Điện sẽ không cân đối được dòng tiền, và dòng tiền âm thì không có tiền để thanh toán, chi phí mua điện cho các đơn vị phát điện.

Tuy nhiên, điều chỉnh ở mức nào là một câu hỏi khó mà cần phải được tính toán rất kỹ. Còn theo tôi, nếu mà thực hiện ngay và thực hiện đúng nguyên tắc của Luật Giá - là giá phải bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh cho ngành Điện - thì mức điều chỉnh giá điện phải tăng khoảng 15% so với giá bán hiện hành. Tuy nhiên, ở mức điều chỉnh này thì có thể sẽ có những tác động khá mạnh. Bởi nếu tính ra, với mức tăng 15% sẽ đẩy lạm phát trực tiếp vòng 1 tăng khoảng 0,5% chưa kể tác động đến vòng hai. Và tác động lên các ngành như: đẩy giá thành sản xuất thép tăng khoảng 0,9%; giá thành sản xuất xi măng tăng khoảng 2,25%; ngành dệt may tăng khoảng 1,95%... đấy là những ngành sử dụng nhiều điện.

Để giảm thiểu tác động của giá điện lên sản xuất, đời sống và lạm phát, tôi cho rằng là cũng có thể tính tới chia lộ trình điều chỉnh ra làm 2 đợt, và mỗi đợt điều chỉnh tăng khoảng từ 7-8%. Với mức điều chỉnh này thì nó đẩy lạm phát vòng 1 của đợt 1 lên khoảng 0,2%. Sau đó, tính toán và chúng ta theo dõi, nếu những tháng cuối năm thuận lợi, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát vẫn kiểm soát trong tầm đề ra, có thể thực hiện điều chỉnh giá đợt 2.

Việc kiến nghị về việc điều chỉnh 1 đợt hay là 2 đợt, điều chỉnh ngay hay chia bước, tôi cho rằng là cả hai cách tính toán này đều tuân thủ đúng theo quyết định 24/QĐ-TTg năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ, tức là quy định EVN được điều chỉnh giá 6 tháng/lần - nếu mà các thông số đầu vào giá điện tăng từ 3% trở lên so với giá bán hiện hành; còn Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh giá khi giá bán điện bình quân tăng cao hơn (10% trở lên)…

Với chi phí của ngành Điện tăng cao như vậy, có thể cân nhắc, tính toán để điều chỉnh. Cũng có thể điều chỉnh ngay, nhưng đồng thời cũng phải có ngay những biện pháp quyết liệt để hạn chế tác động lan tỏa của việc điều chỉnh giá điện.

PV: Trong bối cảnh giá năng lượng chịu tác động từ thế giới, và khả năng biến động tăng cao bất thường, khó đoán định, việc đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi DN/mọi thành phần kinh tế là rất quan trọng. Ông có khuyến nghị gì trong công tác quản lý, điều hành cũng như những vấn đề đặt ra từ các tác động này?

Ông Nguyễn Tiến Thoả: Tôi cho rằng trong hoàn cảnh mà tác động khách quan đã tác động vào giá điện trong nước như chúng ta vừa nêu, chắc chắn phải điều chỉnh giá điện lên. Nếu tiếp tục kéo dài tình trạng này, dòng tiền của ngành Điện sẽ bị âm và việc thu hút đầu tư của các lĩnh vực phát điện, truyền tải, phân phối điện sẽ có những tác động không thuận lợi trong khi chúng ta đang tiếp tục phải bảo đảm nhu cầu tăng trưởng, tiêu dùng điện mỗi năm tăng khá cao.

Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, buộc phải điều chỉnh giá điện - nó sẽ có tác động bất lợi không chừa một ngành nào, không chừa một lĩnh vực nào. Dù muốn hay không, tôi cho rằng chúng ta vẫn phải đối mặt, quan trọng là chúng ta cùng phải đồng thuận và chia sẻ với những khó khăn đó, để có những giải pháp thích ứng tích cực nhằm hạn chế thấp nhất tác động nó gây ra.

Vì vậy, tôi cho rằng ở đây có ba thành tố tham gia thị trường, trước hết - về phía Nhà nước phải tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh nói chung, cho sản xuất kinh doanh điện nói riêng, cho thu hút đầu tư phát triển ngành Điện. Và có thể phải xem xét xử lý các chính sách tình huống mang tính đặc biệt, đặc thù và có thời hạn nhất định đối với sản xuất và đầu tư đối với ngành Điện.

Đồng thời, cũng phải có những giải pháp tổng thể để kiểm soát, để bình ổn mặt bằng giá, ngăn ngừa tác động lan tỏa của việc điều chỉnh giá điện đến mặt bằng giá của nền kinh tế, của hàng hóa, dịch vụ khác mà sử dụng sản phẩm điện; lợi dụng việc tăng giá điện để đẩy giá, ảnh hưởng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát.

Còn về phía ngành Điện thì vẫn phải tiếp tục thực hiện ngay và có hiệu quả các giải pháp tiết kiệm chi phí thông qua các biện pháp nâng cao hiệu lực, năng lực quản trị; nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất, kinh doanh; tiết kiệm các chi phí thường xuyên… Hiện nay tôi được biết là ngành Điện đã và đang thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên, thì cần phải tiếp tục và phải làm quyết liệt. Phải tổ chức vận hành tối ưu hệ thống điện để phát huy tối đa nguồn thủy điện là nguồn chi phí thấp, nhằm góp phần giảm giá thành điện.

Đối với người tiêu dùng điện, tôi nghĩ không có cách nào khác chúng ta vẫn phải quyết liệt áp dụng các giải pháp tiết kiệm tiêu dùng điện. Chúng ta phải chấp nhận giá điện được điều chỉnh ở mức độ nào - dù có điều chỉnh thấp hay điều chỉnh cao - thì chúng ta vẫn phải thực hiện quyết liệt các giải pháp tiết kiệm trong tiêu dùng; thực hiện các chương trình tiết kiệm điện của Chính phủ. Các bộ, ngành cũng cần thiết phải có chương trình tiết kiệm tiêu dùng điện.

Đồng thời các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng cần thiết phải có phương án, các giải pháp tổng thể tính toán để làm sao tiết giảm được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, để những sản phẩm do mình sản xuất ra thích ứng được với thị trường và cạnh tranh được với thị trường trong điều kiện giá đầu vào, giá điện nó có tác động làm cho giá thành tăng lên.

PV: Vâng, xin trân trọng cảm ơn ông!

Nguyên Long (thực hiện)

EVN gồng mình gánh giá điệnEVN gồng mình gánh giá điện
Bộ Công Thương ban hành mức trần giá phát điện của nhà máy điện mặt trời, điện gió chuyển tiếpBộ Công Thương ban hành mức trần giá phát điện của nhà máy điện mặt trời, điện gió chuyển tiếp
Việc điều chỉnh giá điện sẽ được tính toán, đánh giá, cân nhắc hết sức đầy đủ các tác độngViệc điều chỉnh giá điện sẽ được tính toán, đánh giá, cân nhắc hết sức đầy đủ các tác động
Khung giá bán lẻ điện bình quân tăngKhung giá bán lẻ điện bình quân tăng
Xây dựng khung giá bán lẻ điện bình quân để phù hợp với thị trường điệnXây dựng khung giá bán lẻ điện bình quân để phù hợp với thị trường điện

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • pvp-2023
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 68,050 68,950
AVPL/SJC HCM 68,200 68,900
AVPL/SJC ĐN 68,050 68,950
Nguyên liệu 9999 - HN 55,600 ▲150K 55,900 ▲150K
Nguyên liệu 999 - HN 55,550 ▲150K 55,750 ▲150K
AVPL/SJC Cần Thơ 68,050 68,950
Cập nhật: 05/10/2023 09:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 55.300 56.300
TPHCM - SJC 68.150 68.850
Hà Nội - PNJ 55.300 56.300
Hà Nội - SJC 68.150 68.850
Đà Nẵng - PNJ 55.300 56.300
Đà Nẵng - SJC 68.150 68.850
Miền Tây - PNJ 55.300 56.300
Miền Tây - SJC 68.400 ▲50K 68.900 ▲50K
Giá vàng nữ trang - Nhẫn PNJ (24K) 55.300 56.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 55.200 56.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 40.750 42.150
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 31.510 32.910
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 22.050 23.450
Cập nhật: 05/10/2023 09:45
AJC Mua vào Bán ra
Vàng TT, 3A, NT Nghệ An 5,570 ▲10K 5,670 ▲10K
Vàng trang sức 99.99 5,525 ▲20K 5,660 ▲20K
Vàng trang sức 99.9 5,515 ▲20K 5,650 ▲20K
Vàng NL 99.99 5,540 ▲20K
Vàng miếng SJC Thái Bình 6,820 6,890
Vàng miếng SJC Nghệ An 6,825 6,890
Vàng miếng SJC Hà Nội 6,820 6,890
Vàng NT, ĐV, 3A Hà Nội 5,580 ▲20K 5,680 ▲20K
Vàng Nhẫn tròn, 3A, Đồng Vàng Thái Bình 5,580 ▲20K 5,680 ▲20K
Nhẫn tròn không ép vỉ Thái Bình 5,560 ▲20K
Cập nhật: 05/10/2023 09:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 68,200 ▲50K 68,900 ▲50K
SJC 5c 68,200 ▲50K 68,920 ▲50K
SJC 2c, 1C, 5 phân 68,200 ▲50K 68,930 ▲50K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 55,550 ▲100K 56,550 ▲50K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 55,550 ▲100K 56,650 ▲50K
Nữ Trang 99.99% 55,350 ▲100K 56,150 ▲50K
Nữ Trang 99% 54,394 ▲49K 55,594 ▲49K
Nữ Trang 68% 36,336 ▲34K 38,336 ▲34K
Nữ Trang 41.7% 21,567 ▲21K 23,567 ▲21K
Cập nhật: 05/10/2023 09:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,114.67 15,267.35 15,758.14
CAD 17,331.53 17,506.60 18,069.38
CHF 26,010.56 26,273.30 27,117.90
CNY 3,274.49 3,307.56 3,414.41
DKK - 3,380.42 3,510.10
EUR 25,018.29 25,271.00 26,391.76
GBP 28,902.21 29,194.15 30,132.65
HKD 3,038.72 3,069.42 3,168.09
INR - 292.47 304.18
JPY 159.83 161.45 169.19
KRW 15.64 17.38 19.06
KWD - 78,749.00 81,902.50
MYR - 5,117.29 5,229.24
NOK - 2,178.69 2,271.33
RUB - 235.82 261.07
SAR - 6,490.15 6,750.05
SEK - 2,165.86 2,257.96
SGD 17,374.57 17,550.07 18,114.25
THB 585.31 650.35 675.29
USD 24,210.00 24,240.00 24,580.00
Cập nhật: 05/10/2023 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,262 15,362 15,812
CAD 17,529 17,629 18,179
CHF 26,233 26,338 27,138
CNY - 3,301 3,411
DKK - 3,393 3,523
EUR #25,272 25,297 26,407
GBP 29,275 29,325 30,285
HKD 3,041 3,056 3,191
JPY 161.05 161.05 169
KRW 16.32 17.12 19.92
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,184 2,264
NZD 14,246 14,296 14,813
SEK - 2,161 2,271
SGD 17,375 17,475 18,075
THB 608.58 652.92 676.58
USD #24,143 24,223 24,563
Cập nhật: 05/10/2023 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 24,240 24,240 24,540
USD(1-2-5) 24,019 - -
USD(10-20) 24,019 - -
GBP 29,038 29,213 30,102
HKD 3,050 3,072 3,160
CHF 26,098 26,256 27,073
JPY 161.13 162.1 169.49
THB 633.53 639.93 683.55
AUD 15,201 15,293 15,723
CAD 17,400 17,506 18,037
SGD 17,452 17,558 18,052
SEK - 2,174 2,246
LAK - 0.91 1.26
DKK - 3,387 3,498
NOK - 2,185 2,259
CNY - 3,306 3,395
RUB - 219 287
NZD 14,217 14,302 14,698
KRW 16.04 17.72 19.04
EUR 25,195 25,263 26,378
TWD 682.29 - 824.7
MYR 4,831.57 - 5,441.29
Cập nhật: 05/10/2023 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,230.00 24,260.00 24,580.00
EUR 25,296.00 25,398.00 26,003.00
GBP 29,177.00 29,353.00 30,011.00
HKD 3,065.00 3,077.00 3,162.00
CHF 26,262.00 26,367.00 27,038.00
JPY 162.06 162.71 166.07
AUD 15,208.00 15,269.00 15,741.00
SGD 17,566.00 17,637.00 18,026.00
THB 645.00 648.00 679.00
CAD 17,515.00 17,585.00 17,973.00
NZD 14,253.00 14,736.00
KRW 17.33 18.91
Cập nhật: 05/10/2023 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24180 24230 24540
AUD 15310 15360 15768
CAD 17574 17624 18029
CHF 26479 26529 26946
CNY 0 3305.2 0
CZK 0 980 0
DKK 0 3406 0
EUR 25416 25466 26081
GBP 29458 29508 29967
HKD 0 3000 0
JPY 161.85 162.35 168.42
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 16.65 0
LAK 0 1.0393 0
MYR 0 5100 0
NOK 0 2190 0
NZD 0 14285 0
PHP 0 324 0
SEK 0 2100 0
SGD 17616 17666 18080
THB 0 621.2 0
TWD 0 708 0
XAU 6835000 6835000 6895000
XBJ 5500000 5500000 5700000
Cập nhật: 05/10/2023 09:45