Giới chủ Trung Quốc lo ngay ngáy vì công nhân không muốn trở lại sau Tết

15:49 | 19/02/2023

156 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Một số người phải trưng biển tuyển dụng trên đường phố, trong những người khác phải chạy theo những ứng cử viên tiềm năng, van nài xin họ vài phút để nói rõ về điều kiện và chế độ đãi ngộ làm việc.

Trung Quốc khẳng định nền kinh tế của họ sẽ quay trở lại quỹ đạo sau 3 năm thực hiện chính sách zero-Covid. Nhưng tác động của các chính sách hạn chế Covid vẫn còn bao phủ các trung tâm sản xuất, dấy lên nghi ngờ về tốc độ hồi phục của nền kinh tế nước này.

Van nài, trải thảm đỏ mời lao động ở lại

Ở trung tâm thành phố Quảng Châu, nơi có các chợ may mặc lớn nhất thế giới, các ông chủ nhà máy và nhà tuyển dụng cho biết công nhân không muốn quay trở lại.

Một số người phải trưng biển tuyển dụng trên đường phố, trong những người khác phải chạy theo những ứng cử viên tiềm năng, van nài xin họ vài phút để nói rõ về điều kiện và chế độ đãi ngộ làm việc.

Tang Ninh, một người tuyển dụng ở quận Haizhu cho biết, mặc dù cố gắng song cả tuần cô vẫn không thể thuê được một công nhân nào. Trước Tết nguyên đán, nhà máy may mặc của cô có hơn 30 công nhân, nhưng sau Tết chỉ có 10 người quay trở lại.

Giới chủ Trung Quốc lo ngay ngáy vì công nhân không muốn trở lại sau Tết - 1
Nhiều nhà tuyển dụng phải xuống đường để tuyển dụng nhân công, nhưng vẫn khó tuyển được dù đưa ra nhiều ưu đãi hấp dẫn (Ảnh minh họa: CNS).

Tang cho rằng sự lưỡng lực của công nhân là điều dễ hiểu. "Thử tưởng tượng bạn ở một siêu đô thị xa nhà mà lương cả đời bạn vẫn không thể mua được nhà, bạn sống trong một căn phòng trọ nhỏ cũ nát, sử dụng nhà vệ sinh chung với nhiều người khác và làm việc suốt 12 giờ mỗi ngày. Mục tiêu duy nhất của bạn là kiếm tiền và tiết kiệm được nhiều nhất có thể. Nhưng rồi lệnh phong tỏa đến, bạn không biết bao lâu nữa mới được trả lương", Tang nói.

Việc người lao động nhập cư lưỡng lự quay trở lại nhà máy đang làm trầm trọng thêm các vấn đề của thị trường lao động Trung Quốc.

Trước dịch Covid, lực lượng lao động của nước này đã sụt giảm do già hóa dân số và lao động trẻ không hào hứng làm công nhân do lương thấp.

Mặc dù không có số liệu cụ thể về việc có bao nhiêu người trong số 296 triệu lao động nhập cư của Trung Quốc không trở lại nhà máy, nhưng theo các nhân viên và quản lý tại các nhà máy, một số ngành sẽ phải đối mặt với thách thức khi trở lại, buộc lòng họ phải đưa ra những đặc quyền và mức lương hấp dẫn.

"Ngày càng có nhiều lao động nhập cư quyết tâm ở lại quê hương sau khi trải qua những bất ổn trong bối cảnh phong tỏa do Covid-19", ông Bruce Pang, nhà kinh tế trưởng của Greater China tại Jones Lang LaSalle, nói và cho biết: "Cơ sở hạ tầng được cải thiện và các chính sách hỗ trợ của chính phủ ở khu vực nông thôn đã thuyết phục nhiều người lao động tìm việc tại địa phương hơn".

Theo một khảo sát do trang tuyển dụng trực tuyến Zhaopin thực hiện, gần 40% người lao động về quê ăn Tết đang muốn tìm việc ở quê, trong đó 15% đã tìm được việc.

Cùng với việc tăng lương, nhiều trung tâm sản xuất đang "trải thảm đỏ" đón công nhân trở lại. Thành phố Phật Sơn, trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Đông, hồi cuối tháng 1 đã thực hiện một chiến dịch tuyển dụng ở tỉnh Quý Châu.

Một số công ty đã chuyển sang thuê các chuyến bay và tàu hỏa để đưa nhân viên ở xa đến làm việc. Trong khi các quan chức ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Chiết Giang và Phúc Kiến đang đề xuất hỗ trợ tiền mặt để các công ty tiếp tục sản xuất.

Giới chủ Trung Quốc lo ngay ngáy vì công nhân không muốn trở lại sau Tết - 2
Cùng với việc tăng lương, nhiều trung tâm sản xuất đang trải thảm đỏ đón công nhân trở lại làm việc (Ảnh: Bloomberg).

Tuy nhiên theo một số công nhân mà Bloomberg phỏng vấn tại trung tâm dệt may Quảng Châu, mong muốn nhất của họ là sự ổn định, dù mức lương thấp hơn.

Một người đàn ông họ Zhang cho biết, người lao động giờ ít hào hứng với những công việc nhiều tiền nhưng không có thời gian dành cho gia đình. Ông cho biết ông đang tìm một công việc với mức lương khoảng 7.000 - 8.000 nhân dân tệ (tương đương 24-27 triệu đồng), thấp hơn so với trước đây, nhưng nhàn hơn và ổn định hơn.

Một người phụ nữ họ Chen cũng cho biết cô sẵn sàng chờ thêm 1 năm nữa để xem mọi thứ có cải thiện hay không. Trước đó, Chen kiếm được 7.000 nhân dân tệ mỗi tháng ở Quảng Châu, trong đó dành ra khoảng 1.000 nhân dân tệ để thuê nhà và chi tiêu khác, nhưng việc sản xuất đột ngột đình trệ do Covid-19 và lượng đơn đặt hàng giảm xuống đã khiến lương của cô bị giảm hơn một nửa.

Nếu cô trở về quê hương Hồ Bắc, chi phí sinh hoạt sẽ ít hơn. Cô cho biết với công việc đồng áng và một việc làm thêm khác, chẳng hạn như ở siêu thị, cô sẽ tiết kiệm được một khoản tương đương mà cô tích lũy được khi làm ở Quảng Châu.

Lo mất lợi thế lao động giá rẻ về tay các nước láng giềng

Tình trạng thiếu lao động cho đến nay không phải diễn ra ở tất cả các lĩnh vực. Foxconn, nhà cung cấp của Apple, cho biết các hoạt động đã trở lại bình thường sau khi đã chi khoản thưởng Tết hậu hĩnh để giữ chân người lao động.

Nhưng theo Joerg Wuttke, Chủ tịch Phòng Thương mại Liên minh Châu Âu tại Trung Quốc, việc đưa ra mức lương cao hơn để thu hút người lao động ở một số ngành thâm dụng lao động có thể làm mất lợi thế lao động giá rẻ của nước này lâu nay.

"Chắc chắc, một thời gian ngắn nữa, Trung Quốc sẽ mất mọi cơ hội có được nhờ sử dụng nhiều lao động", ông nói và cho rằng các nước như Bangladesh, Việt Nam và Indonesia là những nước đang hưởng lợi từ điều này. "Nếu Trung Quốc muốn cạnh tranh, họ phải quan tâm đến lao động nhập cư", ông nói.

Vicky Wu, chủ sở hữu một nhà máy may mặc với 60 nhân công, cho biết cô hầu như không có lãi trong năm ngoái sau khi chi phí lao động và nguyên vật liệu tăng lên. Dù vậy, cô vẫn lạc quan một cách thận trọng về năm tới.

Sự trở lại chậm chạp của lao động nhập cư cho thấy triển vọng không chắc chắn của nền kinh tế Trung Quốc, bất chấp Bắc Kinh mong muốn đưa nền kinh tế của họ trở lại quỹ đạo trước Covid.

Niềm tin của người tiêu dùng vẫn ở gần mức thấp kỷ lục, với doanh số các mặt hàng như ô tô tiếp tục sụt giảm và lĩnh vực nhà ở vẫn là một lực cản lớn. Trong khi đó, các ngành như ăn uống, du lịch dù đã hồi phục trong dịp Tết Nguyên đán nhưng mức chi tiêu vẫn thấp hơn nhiều so với đại dịch.

Trở lại với những con phố nhỏ ở Haizhu, Tang đang hồi hộp chờ đợi ai đó muốn nghe lời đề nghị của cô: 9 nhân dân tệ cho mỗi chiếc quần, nghĩa là hơn 10.000 nhân dân tệ mỗi tháng. Nếu Tang tiếp tục không tuyển dụng được, nhà máy của cô sẽ cân nhắc tăng lương, nhưng mức tăng cũng sẽ bị hạn chế do lợi nhuận đã quá mỏng.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,500 ▲300K 119,500 ▲300K
AVPL/SJC HCM 117,500 ▲300K 119,500 ▲300K
AVPL/SJC ĐN 117,500 ▲300K 119,500 ▲300K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,970 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,960 11,240
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.500 115.000
TPHCM - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Hà Nội - PNJ 112.500 115.000
Hà Nội - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Đà Nẵng - PNJ 112.500 115.000
Đà Nẵng - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Miền Tây - PNJ 112.500 115.000
Miền Tây - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.300 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.190 114.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.480 113.980
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.250 113.750
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.750 86.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.810 67.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.410 47.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.760 105.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.680 70.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.270 74.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.710 78.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.700 43.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.530 38.030
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,040 11,490
Trang sức 99.9 11,030 11,480
NL 99.99 10,800 ▼50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,800 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,250 11,550
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,250 11,550
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,250 11,550
Miếng SJC Thái Bình 11,800 ▲100K 12,000 ▲80K
Miếng SJC Nghệ An 11,800 ▲100K 12,000 ▲80K
Miếng SJC Hà Nội 11,800 ▲100K 12,000 ▲80K
Cập nhật: 13/05/2025 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16048 16315 16890
CAD 18038 18313 18931
CHF 30107 30481 31121
CNY 0 3358 3600
EUR 28182 28448 29477
GBP 33409 33796 34728
HKD 0 3198 3400
JPY 168 172 179
KRW 0 17 18
NZD 0 14921 15512
SGD 19350 19630 20154
THB 693 756 809
USD (1,2) 25678 0 0
USD (5,10,20) 25716 0 0
USD (50,100) 25744 25778 26120
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,790 25,790 26,150
USD(1-2-5) 24,758 - -
USD(10-20) 24,758 - -
GBP 33,792 33,883 34,780
HKD 3,273 3,283 3,383
CHF 30,320 30,415 31,250
JPY 172.06 172.37 180.06
THB 741.37 750.53 803
AUD 16,301 16,360 16,802
CAD 18,319 18,377 18,874
SGD 19,568 19,629 20,240
SEK - 2,602 2,694
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,801 3,932
NOK - 2,444 2,530
CNY - 3,567 3,665
RUB - - -
NZD 14,874 15,012 15,443
KRW 17.06 17.79 19.1
EUR 28,394 28,417 29,632
TWD 773.78 - 936.8
MYR 5,593.95 - 6,313.23
SAR - 6,807.61 7,165.5
KWD - 82,156 87,497
XAU - - -
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,760 25,770 26,110
EUR 28,231 28,344 29,444
GBP 33,594 33,729 34,696
HKD 3,263 3,276 3,382
CHF 30,184 30,305 31,204
JPY 171.27 171.96 179
AUD 16,251 16,316 16,845
SGD 19,545 19,623 20,158
THB 757 760 793
CAD 18,245 18,318 18,827
NZD 14,989 15,495
KRW 17.49 19.26
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25768 25768 26128
AUD 16207 16307 16873
CAD 18213 18313 18869
CHF 30326 30356 31240
CNY 0 3572.8 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28450 28550 29325
GBP 33694 33744 34857
HKD 0 3355 0
JPY 171.85 172.85 179.41
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15021 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19508 19638 20366
THB 0 720.7 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12000000
XBJ 11000000 11000000 12000000
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,790 25,840 26,220
USD20 25,790 25,840 26,220
USD1 25,790 25,840 26,220
AUD 16,226 16,376 17,447
EUR 28,521 28,671 29,853
CAD 18,163 18,263 19,578
SGD 19,596 19,746 20,213
JPY 172.49 173.99 178.63
GBP 33,807 33,957 34,755
XAU 11,748,000 0 11,952,000
CNY 0 3,454 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/05/2025 11:00