Diễn đàn phát triển thị trường khí Việt Nam: Hướng tới phát triển điện khí hiệu quả và bền vững

13:24 | 22/11/2023

11,130 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Sáng ngày 22/11, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Hà Nội, Báo Sài Gòn Giải Phóng tổ chức Diễn đàn phát triển thị trường khí Việt Nam với chủ đề: “Phát triển điện khí LNG - Xu hướng tất yếu trong chính sách đảm bảo an ninh năng lượng” .

Diễn đàn có sự tham dự của đại diện Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, lãnh đạo Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương), Vụ Dầu khí và Than (Bộ Công Thương), các chuyên gia từ Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, Viện Dầu khí Việt Nam, Hội Dầu khí Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam; đại diện Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV GAS), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)...

Diễn đàn phát triển thị trường khí Việt Nam: Hướng tới phát triển điện khí hiệu quả và bền vững
Các đại biểu tham dự Diễn đàn

Mục đích chính của Diễn đàn nhằm tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất, nhập khẩu và kinh doanh khí, bảo đảm cân bằng thị trường, hướng tới đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và thực hiện các mục tiêu, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Diễn đàn là cơ hội trao đổi giữa cơ quan quản lý nhà nước, bộ, ngành, cơ quan lập pháp và các nhà nghiên cứu kinh tế về vướng mắc trong các quy định, thể chế đối với phát triển ngành công nghiệp khí, điện khí, từ đó đóng góp từng bước hoàn thiện các quy định, cơ chế, chính sách hướng tới phát triển điện khí hiệu quả và bền vững trong tương lai.

Diễn đàn phát triển thị trường khí Việt Nam: Hướng tới phát triển điện khí hiệu quả và bền vững
Ông Tăng Hữu Phong, Tổng Biên tập Báo SGGP

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, ông Tăng Hữu Phong, Tổng Biên tập Báo SGGP cho biết, Nghị Quyết số 55 của Bộ Chính trị ngày 11-2-2020 về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đưa ra nhiệm vụ phát triển công nghiệp khí “Ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ khí hóa lỏng” đồng thời “Chú trọng phát triển nhanh nhiệt điện khí sử dụng khí hóa lỏng, đưa điện khí dần trở thành nguồn cung cấp điện năng quan trọng, hỗ trợ cho điều tiết hệ thống.

Theo ông Tăng Hữu Phong, Quy hoạch điện 8, đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện phục vụ nhu cầu trong nước là 150.489 MW (không bao gồm nhập khẩu, điện mặt trời mái nhà tự dùng, năng lượng tái tạo để sản xuất năng lượng mới) và định hướng năm 2050, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 490.000 đến 573.000 MW.

Cơ cấu nguồn nhiệt điện khí trong nước và khí hóa lỏng đến năm 2030 sẽ đạt 37.330 MW, tương ứng 24,8% tổng công suất nguồn điện, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn điện (trong đó nhiệt điện khí trong nước là 14.930 MW chiếm 9,9% và nhiệt điện khí hóa lỏng là 22.400 MW chiếm 14,9%).

Trong khi đó, nhiệt điện than, thủy điện, điện gió trên bờ và ngoài khơi lần lượt chiếm tỷ trọng là 20%, 19,5% và 18,5%. Phát triển điện khí là phù hợp với chủ trương của Việt Nam trong Quy hoạch điện 8 để đảm bảo cung cấp điện cho hệ thống và giảm phát thải khí nhà kính ra môi trường; bù đắp thiếu hụt năng lượng cho hệ thống và đảm bảo đa dạng nguồn cung cấp nhiên liệu; là nguồn dự phòng khi tỷ trọng của các nguồn điện năng lượng tái tạo tăng cao trong cơ cấu nguồn, đảm bảo ổn định cung cấp điện cho hệ thống.

Tuy vậy, trong phát triển điện khí, thách thức trước tiên là nguồn cung và giá khí hoá lỏng hoàn toàn phụ thuộc nhập khẩu. Việt Nam không chủ động được nguồn cấp khí hóa lỏng do hoàn toàn phải nhập khẩu loại nhiên liệu này.

Do vậy, trong bối thế giới có nhiều thay đổi khó lường, giá nhiên liệu khí hóa lỏng biến động thất thường và thường chiếm tỷ lệ từ 70-80% giá thành điện năng sản xuất, nên việc xây dựng cơ chế giá phù hợp để thích nghi với những thay đổi giá nhiên liệu, nhưng không tác động quá lớn tới giá bán lẻ điện là thách thức rất lớn với Việt Nam.

Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, các vướng mắc trong việc triển khai các dự án điện khí hiện nay vẫn là đàm phán giá điện do bên mua là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tính toán giá mua đang cao hơn giá bán lẻ điện bình quân mà EVN bán ra; chưa ban hành khung giá phát điện cho các nhà máy điện khí hóa lỏng; khung pháp lý cho các dự án khí hóa lỏng chưa hoàn thiện; việc thu xếp vốn cho dự án khí hóa lỏng gặp nhiều khó khăn do cần đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tài chính về các điều kiện bảo lãnh, cam kết để dự án đầu tư có hiệu quả.

Trong khi đó, từ nay đến năm 2030 chỉ còn 7 năm nữa để các dự án khí hóa lỏng triển khai và đi vào vận hành. "Nếu như chúng ta không nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc thì việc triển khai các dự án khí hóa lỏng sẽ gặp trở ngại lớn, đồng thời sẽ ảnh hưởng đến bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia", ông Tăng Hữu Phong nhận định.

Diễn đàn phát triển thị trường khí Việt Nam: Hướng tới phát triển điện khí hiệu quả và bền vững
TS. Nguyễn Hùng Dũng, Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hội Dầu khí Việt Nam thảo luận tại diễn đàn

Thảo luận tại diễn đàn, TS. Nguyễn Hùng Dũng, Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hội Dầu khí Việt Nam cho biết, theo Quy hoạch điện 8, điện khí có vai trò quan trọng, là nguồn điện nền trong thực hiện dịch chuyển năng lượng thời gian tới. "Tuy nhiên, chúng ta hiện mới có duy nhất tổng kho LNG 1 triệu tấn trong Quy hoạch điện 8, nhiều tỉnh có quy hoạch điện khí, nhiều nơi mong chuyển đổi điện than thành điện khí, nhưng trên thực tế cho thấy, phát triển điện khí gặp rất nhiều khó khăn và thách thức, như đầu tư hạ tầng, đàm phán hợp đồng mua bán điện, khí ...".

Theo TS. Nguyễn Hùng Dũng, các doanh nghiệp bao giờ cũng hướng tới lợi ích và mong muốn thị trường phải được phát triển lành mạnh, đảm bảo tính công bằng. Do đó, phát triển điện khí phải theo cơ chế thị trường, dưới sự điều tiết của nhà nước. Đại diện Hội Dầu khí Việt Nam cũng dẫn chứng ở một số nước như Hàn Quốc, Singapore… nhà nước chi phối việc điều tiết thị trường khí. Vì vậy, TS. Nguyễn Hùng Dũng cho rằng, muốn phát triển thị trường khí cần quy hoạch tổng thể, có chiến lược dài hơn để các doanh nghiệp chủ động, không phải chạy theo. Và điện khí là xu hướng tất yếu nên cần phải có cơ chế, chính sách đặc thù để đảm bảo cho các nhà đầu tư yên tâm tham gia thị trường.

Diễn đàn phát triển thị trường khí Việt Nam: Hướng tới phát triển điện khí hiệu quả và bền vững
Ông Bùi Quốc Hùng - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo - Bộ Công Thương

Cũng tại diễn đàn, ông Bùi Quốc Hùng - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo - Bộ Công Thương cho biết, cam kết của Việt Nam tại COP26 được thể hiện thông qua Quy hoạch điện 8, việc điều chỉnh lại cơ cấu nguồn điện theo từng giai đoạn tới năm 2045, trong đó có điện khí. Nghị quyết 55/NQ-BCT của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với yêu cầu phải chú trọng phát triển nhanh chóng nhiệt điện khí LNG, đồng thời phải ưu tiên phát triển hạ tầng nhập khẩu và phân phối LNG.

Theo Quy hoạch điện 8, khối lượng hydro cần thiết để thay thế nguồn LNG nhập khẩu đến năm 2035 khoảng 0,7-1,4 triệu tấn, năm 2045 khoảng 9,5-11,3 triệu tấn, năm 2050 khoảng 16-17,4 triệu tấn. Ước tính sơ bộ cho thấy tiềm năng năng lượng tái tạo trong nước đảm bảo sản xuất đủ hydro xanh cho sản xuất điện.

Hiện Quy hoạch điện 8 đưa ra mục tiêu chuyển đổi 18 GW điện than vào năm 2030 được thay thế bằng 14 GW điện khí LNG và 12-15 GW nguồn năng lượng tái tạo. Nghĩa là, đến năm 2030 sẽ phát triển 23.900 MW điện khí, tương đương tỷ trọng hơn 16% cơ cấu nguồn điện, tập trung chủ yếu ở miền Bắc để đảm bảo nguồn điện chạy nền cho khu vực này. Theo tính toán, nhu cầu nhập khẩu LNG sẽ tăng lên, đạt khoảng 14-18 tỷ m3 vào năm 2030 và khoảng 13-16 tỷ m3 vào năm 2045.

Nhưng hiện nay vẫn đứng trước nhiều thách thức, nhiều dự án vẫn nằm ở trạng thái treo, xuất phát từ nhiều nguyên nhân.

Thứ nhất, việc nhập khẩu LNG phải theo các thông lệ mua bán LNG quốc tế. Việt Nam hiện cũng chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến thiết kế, xây dựng và vận hành các cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý hiện hành cho các dự án LNG cho điện ở Việt Nam vẫn chưa được xây dựng hoàn chỉnh.

Trong những năm qua, giá LNG đã có nhiều biến động rất lớn do ảnh hưởng của đại dịch Covid và xung đột chiến sự giữa Nga và Ukraine, điều này ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ của các thị trường nhạy cảm về giá như Việt Nam nếu Chính phủ không có các hỗ trợ hợp lý trong các điều kiện đặc thù.

Thứ hai, LNG có những đặc thù riêng của nó như mức độ các cam kết dài hạn, thị trường biến động và chịu nhiều ảnh hưởng của các sự kiện chính trị, xã hội… Thị trường năng lượng nói chung, LNG nói riêng trên toàn cầu hiện đang trong trạng thái bất ổn do các sự kiện địa chính trị.

Các dự án điện khí LNG có công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư lớn nên đòi hỏi nhà đầu tư cần có kinh nghiệm và năng lực tài chính. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ kinh nghiệm về lĩnh vực này nên có thể sẽ ảnh hưởng tới tiến độ và chất lượng lựa chọn nhà đầu tư cho các dự án. Cơ chế giá điện sử dụng nhiên liệu LNG chưa có quy định đầy đủ.

Cũng theo ông Hùng, một khó khăn nữa là hiện nay Chính phủ cũng không cấp bảo lãnh nào, và việc phát điện sẽ là cạnh tranh trên thị trường điện, nên quyết định đầu tư nhà máy điện độc lập đòi hỏi nhà đầu tư phải rất nỗ lực. Về tiến độ triển khai thực hiện các dự án LNG, thách lớn nhất là đàm phán Hợp đồng mua bán điện (PPA) Việc đàm phán PPA phải thực hiện theo đúng quy định của Bộ Công Thương. Theo đó, chủ đầu tư sẽ phải đàm phán mua bán điện với EVN dựa trên chi phí đầu tư nhà máy, giá khí cho phát điện, lợi nhuận cho phép… (trong khung giá phát điện do Bộ Công Thương ban hành).

Kỳ 8: Cuộc chiến giành quyền kiểm soát thị trường khí đốt ở châu ÂuKỳ 8: Cuộc chiến giành quyền kiểm soát thị trường khí đốt ở châu Âu
ADNOC Gas ký kết thỏa thuận cung cấp LNG trị giá hàng trăm triệu USD với PetroChinaADNOC Gas ký kết thỏa thuận cung cấp LNG trị giá hàng trăm triệu USD với PetroChina
Phát triển điện khí LNG: Nhiều vướng mắc cần được tháo gỡPhát triển điện khí LNG: Nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ
Petrovietnam đồng hành cùng “Diễn đàn Phát triển thị trường khí Việt Nam”Petrovietnam đồng hành cùng “Diễn đàn Phát triển thị trường khí Việt Nam”

Huy Tùng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,700 85,200
AVPL/SJC HCM 82,700 85,200
AVPL/SJC ĐN 82,700 85,200
Nguyên liệu 9999 - HN 82,900 83,200
Nguyên liệu 999 - HN 82,800 83,100
AVPL/SJC Cần Thơ 82,700 85,200
Cập nhật: 07/12/2024 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 83.000 84.000
TPHCM - SJC 82.700 85.200
Hà Nội - PNJ 83.000 84.000
Hà Nội - SJC 82.700 85.200
Đà Nẵng - PNJ 83.000 84.000
Đà Nẵng - SJC 82.700 85.200
Miền Tây - PNJ 83.000 84.000
Miền Tây - SJC 82.700 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 83.000 84.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.700 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 83.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.700 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 83.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 82.900 83.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 82.820 83.620
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 81.960 82.960
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 76.270 76.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 61.530 62.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 55.670 57.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 53.160 54.560
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 49.810 51.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 47.720 49.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.570 34.970
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.140 31.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.370 27.770
Cập nhật: 07/12/2024 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,200 8,410
Trang sức 99.9 8,190 8,400
NL 99.99 8,210
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,190
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,290 8,420
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,290 8,420
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,290 8,420
Miếng SJC Thái Bình 8,270 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,270 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,270 8,520
Cập nhật: 07/12/2024 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 15777 16043 16681
CAD 17551 17824 18447
CHF 28252 28619 29273
CNY 0 3358 3600
EUR 26228 26486 27321
GBP 31583 31963 32915
HKD 0 3133 3335
JPY 161 166 172
KRW 0 0 19
SGD 18406 18682 19213
THB 660 723 777
USD (1,2) 25130 0 0
USD (5,10,20) 25165 0 0
USD (50,100) 25192 25225 25467
Cập nhật: 07/12/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,170 25,170 25,467
USD(1-2-5) 24,163 - -
USD(10-20) 24,163 - -
GBP 31,901 31,974 32,835
HKD 3,203 3,209 3,300
CHF 28,458 28,487 29,324
JPY 164.45 164.72 172.35
THB 685.06 719.14 768.45
AUD 16,062 16,086 16,551
CAD 17,843 17,868 18,360
SGD 18,578 18,655 19,252
SEK - 2,292 2,366
LAK - 0.88 1.22
DKK - 3,531 3,646
NOK - 2,252 2,326
CNY - 3,454 3,551
RUB - - -
NZD 14,560 14,651 15,047
KRW 15.64 17.28 18.61
EUR 26,353 26,395 27,559
TWD 706.74 - 853.77
MYR 5,363.13 - 6,036.93
SAR - 6,631.75 6,968.13
KWD - 80,304 85,204
XAU - - 85,200
Cập nhật: 07/12/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185 25,187 25,467
EUR 26,284 26,390 27,490
GBP 31,717 31,844 32,810
HKD 3,192 3,205 3,309
CHF 28,296 28,410 29,280
JPY 165.01 165.67 173.01
AUD 16,024 16,088 16,581
SGD 18,592 18,667 19,189
THB 723 726 757
CAD 17,742 17,813 18,325
NZD 14,664 15,156
KRW 17.18 18.85
Cập nhật: 07/12/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25313 25313 25467
AUD 15959 16059 16629
CAD 17731 17831 18386
CHF 28485 28515 29308
CNY 0 3459.3 0
CZK 0 997 0
DKK 0 3559 0
EUR 26399 26499 27374
GBP 31881 31931 33049
HKD 0 3266 0
JPY 165.58 166.08 172.63
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.124 0
MYR 0 5865 0
NOK 0 2284 0
NZD 0 14656 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2300 0
SGD 18563 18693 19420
THB 0 689.5 0
TWD 0 777 0
XAU 8390000 8390000 8520000
XBJ 7900000 7900000 8520000
Cập nhật: 07/12/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,204 25,254 25,467
USD20 25,204 25,254 25,467
USD1 25,204 25,254 25,467
AUD 16,008 16,158 17,221
EUR 26,530 26,680 27,844
CAD 17,678 17,778 19,090
SGD 18,641 18,791 19,259
JPY 166.24 167.74 172.34
GBP 31,932 32,082 32,857
XAU 8,248,000 0 8,502,000
CNY 0 0 0
THB 0 0 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 6
Cập nhật: 07/12/2024 08:00