Để 40 vạn hộ dân vùng sâu, vùng xa có điện

10:29 | 06/09/2014

402 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau 15 năm triển khai thực hiện, chương trình điện khí hoá nông thôn đã đạt được những kết quả hết sức to lớn, được Đảng, Chính phủ và các nhà tài trợ quốc tế đánh giá rất cao. Và để nâng tỉ lệ hộ dân có điện từ 97,62% năm 2013 lên 100% vào năm 2020, ngành điện rất cần sự hỗ trợ từ các nguồn lực trong nước cũng như ngoài nước.

Để 400.000 hộ dân vùng sâu, vùng xa có điện

Điện lực Điện Biên kéo điện về các xã vùng sâu, vùng xa của huyện Mường Nhé.

Trong 15 thực hiện chương trình điện khí hoá nông thôn, EVN đã dành hơn 50.000 tỉ đồng (bình quân khoảng 3.300 tỉ đồng/năm) để thực hiện chương trình điện khí hóa nông thôn. Với những nỗ lực to lớn đó, bộ mặt nông thôn, miền núi, hải đảo trên cả nước đã có nhiều đổi mới nhờ dòng điện lưới quốc gia.

Nếu như năm 1998, ngành điện đứng trước 2 thách thức lớn đó là: Hàng triệu hộ dân chưa có điện; chất lượng điện xuống cấp nghiêm trọng và giá điện đến các hộ dân nông thôn rất cao thì đến cuối năm 2013 nước ta có hơn 16,2 triệu hộ dân có điện, đạt tỷ lệ 97,62%. Nhiều xã trước đây có giá điện rất cao, tổn thất 30-35%, có nơi lên đến 75%, đến nay chất lượng được cải thiện rõ rệt, tổn thất ở lưới điện nông thôn chỉ trên dưới 10%.

Để có những con số thay đổi ấn tượng ấy, EVN đã triển khai rất nhiều chương trình, dự án lớn như: Dự án Năng lượng nông thôn 1 đưa điện đến hơn 900 nghìn hộ dân; Chương trình “Điện cho đồng bào Tây Nguyên” với mục tiêu đưa điện về 1.300 thôn, bản; Chương trình “Điện cho đồng bào Khơ-me” ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng với hơn 45.000 hộ dân có điện; chương trình đưa điện lưới quốc gia ra các huyện đảo như Cô Tô, Phú Quốc, Lý Sơn, tăng cường nguồn phát điện cho các huyện đảo Phú Quý, Côn Đảo… Có thể nói, đây là một kỳ tích mang tính xã hội, nhân văn rất lớn mà nhiều nước có nền kinh tế phát triển hơn Việt Nam cũng chưa đạt được.

Theo lãnh đạo EVN, kết quả trên là nhờ các yếu tố sau đây:

Thứ nhất là sự nhất quán thực hiện mục tiêu Nghị quyết của Đảng, các chính sách của Nhà nước và các chỉ đạo của Chính phủ, Bộ, ngành và chính quyền địa phương có chương trình điện nông thôn mà EVN thực hiện. Trong 15 năm ấy, từng thời kỳ Đảng và Chính phủ có Nghị quyết chỉ đạo sát sao, trên cơ sở đó các Bộ ngành có nguồn vốn hỗ trợ, nguồn ngân sách để giúp EVN thực hiện chương trình này.

Thứ 2 là sự chỉ đạo đúng đắn của Chính phủ về việc giao cho một Tập đoàn kinh tế nhà nước đứng ra làm lực lượng chủ lực để thực hiện chương trình - đó là EVN. Chính phủ đã ban hành các quy định phân định trách nhiệm rõ ràng thực hiện trong từng thời kỳ, từng giai đoạn để thực hiện cho phù hợp với từng địa phương, từng vùng miền. EVN đã nghiên cứu đưa ra nhiều giải pháp, có sự phân định trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa Tập đoàn và UBND các tỉnh, kể cả người dân được hưởng lợi từ dự án cùng tham gia theo đúng phương châm “Nhà nước và nhân dân; Trung ương và địa phương cùng làm”.

Thứ 3 là sự chia sẻ chi phí của các bên cùng tham gia chương trình này. Có chương trình EVN đầu tư đến các Trạm biến áp còn địa phương đầu tư phần hạ áp. Hay EVN đầu tư các phần đường dây các TBA nhưng chi phí đền bù giải phóng mặt bằng thì địa phương và nhân dân cùng tham gia, góp phần cho đảm bảo tiến độ của dự án cũng như giảm được chi phí cho đầu tư.

Và cuối cùng, đó là có sự ưu tiên trong đầu tư và có sự linh hoạt trong quá trình thực hiện.

Ngoài ra, trong quá trình triển khai thực hiện, ngành điện cũng đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ từ các tổ chức tài chính, đặc biệt là các tổ chức tài chính quốc tế. Theo số liệu của EVN, trong 15 năm qua, tổng vốn ODA cho chương trình điện khí hóa nông thôn là gần 2 tỉ USD, trong đó, riêng Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ lên tới 1,2 tỉ USD.

Theo Phó tổng giám đốc EVN Nguyễn Tấn Lộc, đây là nguồn vốn rất quan trọng cho sự thành công của chương trình điện khí hóa nông thôn Việt Nam. Bên cạnh sự tài trợ bằng nguồn vốn ODA đó, WB còn tài trợ các dự án hỗ trợ kỹ thuật trong lĩnh vực quản lý dự án, tổ chức đấu thầu dự án, quản lý tài chính dự án, nâng cao năng lực quản lý vận hành. Có thể khẳng định vai trò của các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW)… đặc biệt là WB có đội ngũ cán bộ quản lý dự án, các chuyên gia của nhiều nước đã đến và giúp cho chương trình điện khí hóa nông thôn được thành công như ngày hôm nay.

Mặc dù đã đạt được những kết quả hết sức ấn tượng như vậy nhưng để đạt được mục tiêu 100% hộ dân có điện vào năm 2020, ngành điện sẽ phải đối diện với rất nhiều khó khăn, thách thức. Bởi theo ông Lộc, hiện vẫn còn gần 400.000 hộ dân vùng sâu, xa chưa có điện mà suất đầu tư cho những hộ này rất lớn (gấp 5-10 lần các hộ dân trước đây). Bên cạnh đó, trong những năm vừa qua EVN đã tiếp nhận phần lưới điện hạ áp nông thôn của hơn 7.000 xã trước đây các địa phương quản lý. Vấn đề nâng cao chất lượng lưới điện và chất lượng điện cung cấp tại các xã này cũng đang là vấn đề phải làm ngay.

Ngoài ra, sự phát triển các vùng trồng cây thanh long, vùng nuôi tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long và điện ở các thôn, khe, bản biên giới đang rất cấp thiết. Vừa qua, EVN cũng được Chính phủ giao quản lý vận hành, cung cấp điện cho phát triển kinh tế xã hội ở các huyện đảo Côn Đảo, Phú Quốc, Lý Sơn, Cô Tô, Phú Quý…

Chính phủ đã yêu cầu EVN đến năm 2015 phải 98% số hộ dân nông thôn có điện và đến 2020 đạt 100% từ nguồn điện lưới quốc gia cũng như nguồn điện tại chỗ. Theo tính toán, từ nay đến năm 2020, cần đầu tư cho lưới điện nông thôn Việt Nam gần 3 tỷ USD – một lượng vốn rất lớn đối với EVN. Vì vậy, EVN mong muốn các tổ chức tài chính quốc tế tiếp tục tạo điều kiện về nguồn vốn ODA để EVN hoàn thành sứ mệnh điện khí hóa nông thôn của mình” – ông Lộc nhấn mạnh.

Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải: Với nỗ lực to lớn của hệ thống chính trị, của toàn dân, chương trình điện khí hóa nông thôn đạt nhiều thành tựu. Tính đến hết năm 2013 đã có trên 97,6% số hộ dân cả nước có điện. Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn trong mục tiêu phấn đấu một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Thanh Ngọc