Dấu hiệu tích cực cho mục tiêu tăng trưởng năm 2024

08:41 | 30/06/2024

3,856 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Dựa trên tăng trưởng 6,42% 6 tháng đầu năm, Tổng cục Thống kê cho rằng có khả năng Việt Nam sẽ đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm 2024 trong khoảng 6-6,5% là ngưỡng Quốc hội đề ra.

Theo số liệu Tổng cục Thống kê vừa công bố Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2024 đạt 6,42%, vượt xa mức tăng 3,72% sáu tháng đầu năm 2023 và cao hơn mức tăng trưởng mục tiêu cận trên tại Nghị quyết 01 đề ra (5,5%-6%), đây là một dấu hiệu tích cực cho mục tiêu tăng trưởng cả năm 2024.

Dựa trên tăng trưởng 6,42% 6 tháng đầu năm, Tổng cục Thống kê cho rằng có khả năng Việt Nam sẽ đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm 2024 trong khoảng 6-6,5% là ngưỡng Quốc hội đề ra.
Dựa trên tăng trưởng 6,42% 6 tháng đầu năm, Tổng cục Thống kê cho rằng có khả năng Việt Nam sẽ đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm 2024 trong khoảng 6-6,5% là ngưỡng Quốc hội đề ra.

Dấu hiệu tích cực cho kinh tế 2024

Trong nửa đầu năm 2024, nền kinh tế thế giới vẫn đang ở mức phục hồi chậm, tình hình thế giới nhiều bất ổn, khó dự báo. Tuy nhiên, tính đến tháng 6/2024, các tổ chức quốc tế đều nhận định lạc quan hơn về tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 so với các dự báo đưa ra trước đó (tăng từ 0,1-0,3 điểm phần trăm),… điều này sẽ tác động tích cực đến kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm.

Theo bà Nguyễn Thị Hương, tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, cho biết tính riêng trong quý 2 năm nay GDP tăng trưởng tích cực, với tốc độ tăng ước đạt 6,93% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 7,99% của quý 2-2022 nếu xét trong 10 năm trở lại đây.

Tính chung 6 tháng, GDP tăng 6,42%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 6,58% của 6 tháng đầu năm 2022 nếu xét trong giai đoạn 2020-2024.

Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế 6 tháng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,38%, đóng góp 5,96%.

Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,51%, đóng góp 44,28%. Khu vực dịch vụ tăng 6,64%, đóng góp 49,76%.

Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2024, bà Hương cho hay khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỉ trọng 11,5%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,44%, khu vực dịch vụ chiếm 43,3%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,6%.

Cũng theo Tổng cục Thống kê, lạm phát (CPI) bình quân quý 2-2024 tăng 4,39% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, lạm phát tăng 4,08% so với cùng kỳ năm 2023.

Nguyên nhân CPI 6 tháng đầu năm tăng so với cùng kỳ năm trước do một số nguyên nhân chủ yếu như chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống bình quân sáu tháng đầu năm 2024 tăng 4% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm CPI chung tăng 1,34 điểm phần trăm.

Chỉ số giá nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,51% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm CPI chung tăng 1,04 điểm phần trăm.

Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 8,58% do trong năm học 2023-2024 một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tăng mức học phí, làm CPI chung tăng 0,53 điểm phần trăm.

Và chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 7%, tác động làm CPI chung tăng 0,3 điểm phần trăm do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo thông tư số 22 năm 2023 của Bộ Y tế.

Còn nhiều thách thức

Nhận định về tình hình kinh tế trong nước 6 tháng cuối năm, Vụ trưởng Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia Nguyễn Thị Mai Hạnh cho biết: Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng cuối năm sẽ có nhiều thuận lợi hơn khi thời tiết bước sang mùa mưa, tình trạng nắng hạn và xâm nhập mặn không còn là mối lo ngại với người sản xuất nông nghiệp.

Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng cuối năm sẽ có nhiều thuận lợi.
Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng cuối năm sẽ có nhiều thuận lợi.

Ngành công nghiệp và xây dựng, với sự phục hồi của kinh tế thế giới, công nghiệp 6 tháng đầu năm đã có tăng trưởng đáng ghi nhận là tiền đề cho tăng trưởng 6 tháng cuối năm. Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý III khả quan hơn quý II với 40,7% doanh nghiệp đánh giá tốt hơn, 42,2% doanh nghiệp giữ ổn định là một tín hiệu tốt cho sự phục hồi của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong những tháng tới.

Ngành dịch vụ có cơ hội phát triển trong 6 tháng cuối năm khi quý III tiếp tục là mùa du lịch cao điểm, khai thác tốt hoạt động du lịch sẽ lan tỏa mạnh tới khối ngành dịch vụ thị trường. Bên cạnh đó, có những ngày nghỉ lễ kéo dài, mùa tựu trường và nhu cầu mua sắm cao điểm vào cuối năm sẽ tác động tích cực tới khối ngành dịch vụ.

"Tiêu dùng trong nước vẫn là yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với lợi thế thị trường tiêu thụ hơn 100 triệu dân. Một số yếu tố kích thích tiêu dùng trong nước 6 tháng cuối năm như: chính sách giảm thuế VAT 2% đến hết năm đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ đang trình Quốc hội thông qua; chính sách tăng lương cơ sở từ ngày 1/7/2024 sẽ mang lại nhiều ý nghĩa cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, góp phần nâng cao đời sống, tăng tiêu dùng và năng suất lao động, đóng góp vào tăng trưởng GDP 6 tháng cuối năm", Vụ trưởng Nguyễn Thị Mai Hạnh nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, thương mại quốc tế của Việt Nam đang có xu hướng tăng mạnh do nhu cầu thế giới dần cải thiện, sản xuất trong nước phục hồi. Xuất khẩu Việt Nam được dự báo tiếp tục tăng trưởng tốt trong những tháng cuối năm, đặc biệt với những mặt hàng chủ lực như điện tử máy tính và linh kiện, máy móc thiết bị phụ tùng, một số sản phẩm nông, lâm nghiệp thủy sản…

Đầu tư công tiếp tục được đẩy mạnh, đẩy nhanh và có nhiều giải pháp sử dụng hiệu quả vốn đầu tư công trong 6 tháng cuối năm để hoàn thành mục tiêu, nhằm tháo gỡ khó khăn, dẫn dắt, thúc đẩy, thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế khác, tạo việc làm, góp phần tăng cường an sinh xã hội, cũng như tạo nền tảng về kết cấu hạ tầng để phục vụ phát triển nhanh và bền vững trong dài hạn.

Vụ trưởng Nguyễn Thị Mai Hạnh cho biết: "Căn cứ diễn biến tình hình thế giới, kết quả hoạt động kinh tế trong nước 6 tháng đầu năm và một số nhận định về tình hình kinh tế 6 tháng cuối năm, và nếu không có biến động lớn, Tổng cục Thống kê cho rằng có khả năng Việt Nam sẽ đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm 2024 trong khoảng 6-6,5% là ngưỡng Quốc hội đề ra".

Tuy nhiên, đại diện Tổng cục Thống kê cũng nhấn mạnh, để đạt mức tăng trưởng cận trên khoảng 6,5% vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, cần tiếp tục thực hiện những giải pháp quyết liệt nhằm duy trì ổn định tình hình kinh tế - chính trị - xã hội; đảm bảo các cân đối vĩ mô; kiểm soát tốt lạm phát; phát huy hiệu quả, linh hoạt các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp đã được đề ra trong các Nghị quyết của Chính phủ, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế 6 tháng cuối năm.

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Phấn đấu tăng trưởng đạt cận trên, lạm phát ở cận dưới so với mục tiêu

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Phấn đấu tăng trưởng đạt cận trên, lạm phát ở cận dưới so với mục tiêu

Tại cuộc họp sáng 8/6, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ mục tiêu phấn đấu trong năm 2024 là tăng trưởng GDP đạt cận trên, lạm phát ở cận dưới so với mục tiêu đã đề ra (mục tiêu đã đề ra là tăng trưởng từ 6-6,5% và lạm phát từ 4-4,5%).

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank
  • bao-hiem-pjico
  • cho-vay-xnk
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 74,980 76,980
AVPL/SJC HCM 74,980 76,980
AVPL/SJC ĐN 74,980 76,980
Nguyên liệu 9999 - HN 74,350 ▲200K 74,900 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 74,250 ▲200K 74,800 ▲200K
AVPL/SJC Cần Thơ 74,980 76,980
Cập nhật: 02/07/2024 09:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.950 75.600
TPHCM - SJC 74.980 76.980
Hà Nội - PNJ 73.950 75.600
Hà Nội - SJC 74.980 76.980
Đà Nẵng - PNJ 73.950 75.600
Đà Nẵng - SJC 74.980 76.980
Miền Tây - PNJ 73.950 75.600
Miền Tây - SJC 74.980 76.980
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.950 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 74.980 76.980
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.950
Giá vàng nữ trang - SJC 74.980 76.980
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.950
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.900 74.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.780 56.180
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.450 43.850
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.830 31.230
Cập nhật: 02/07/2024 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,370 ▲10K 7,565 ▲10K
Trang sức 99.9 7,360 ▲10K 7,555 ▲10K
NL 99.99 7,375 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,375 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,475 ▲10K 7,605 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,475 ▲10K 7,605 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,475 ▲10K 7,605 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 7,550 7,698
Miếng SJC Nghệ An 7,550 7,698
Miếng SJC Hà Nội 7,550 7,698
Cập nhật: 02/07/2024 09:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 74,980 76,980
SJC 5c 74,980 77,000
SJC 2c, 1C, 5 phân 74,980 77,010
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,050 ▲100K 75,650 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,050 ▲100K 75,750 ▲100K
Nữ Trang 99.99% 73,950 ▲100K 74,950 ▲100K
Nữ Trang 99% 72,208 ▲99K 74,208 ▲99K
Nữ Trang 68% 48,621 ▲68K 51,121 ▲68K
Nữ Trang 41.7% 28,907 ▲41K 31,407 ▲41K
Cập nhật: 02/07/2024 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,477.55 16,643.99 17,177.90
CAD 18,047.28 18,229.58 18,814.35
CHF 27,459.60 27,736.97 28,626.72
CNY 3,428.80 3,463.43 3,575.07
DKK - 3,594.42 3,732.05
EUR 26,608.05 26,876.82 28,066.92
GBP 31,331.15 31,647.63 32,662.82
HKD 3,174.77 3,206.84 3,309.71
INR - 304.10 316.26
JPY 152.75 154.30 161.67
KRW 15.88 17.64 19.24
KWD - 82,760.12 86,068.50
MYR - 5,335.58 5,451.93
NOK - 2,337.73 2,436.97
RUB - 279.14 309.01
SAR - 6,763.58 7,033.96
SEK - 2,346.48 2,446.10
SGD 18,267.97 18,452.49 19,044.41
THB 611.48 679.42 705.43
USD 25,215.00 25,245.00 25,465.00
Cập nhật: 02/07/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,725 16,825 17,275
CAD 18,359 18,459 19,009
CHF 27,832 27,937 28,737
CNY - 3,462 3,572
DKK - 3,616 3,746
EUR #26,876 26,891 28,082
GBP 31,806 31,856 32,816
HKD 3,184 3,199 3,334
JPY 154.6 154.6 161.95
KRW 16.61 17.41 19.41
LAK - 0.86 1.22
NOK - 2,348 2,428
NZD 15,269 15,319 15,836
SEK - 2,358 2,468
SGD 18,332 18,432 19,162
THB 639.62 683.96 707.62
USD #25,244 25,244 25,465
Cập nhật: 02/07/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,260.00 25,265.00 25,465.00
EUR 26,775.00 26,883.00 28,079.00
GBP 31,486.00 31,676.00 32,653.00
HKD 3,193.00 3,206.00 3,310.00
CHF 27,627.00 27,738.00 28,602.00
JPY 153.85 154.47 161.31
AUD 16,600.00 16,667.00 17,172.00
SGD 18,393.00 18,467.00 19,013.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18,175.00 18,248.00 18,785.00
NZD 15,153.00 15,658.00
KRW 17.58 19.20
Cập nhật: 02/07/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25267 25267 25464
AUD 16715 16765 17270
CAD 18320 18370 18821
CHF 27917 27967 28533
CNY 0 3466.7 0
CZK 0 1047 0
DKK 0 3636 0
EUR 27065 27115 27825
GBP 31914 31964 32632
HKD 0 3265 0
JPY 155.54 156.04 160.55
KHR 0 6.2261 0
KRW 0 18.05 0
LAK 0 0.969 0
MYR 0 5565 0
NOK 0 2380 0
NZD 0 15204 0
PHP 0 408 0
SEK 0 2400 0
SGD 18538 18588 19149
THB 0 652 0
TWD 0 780 0
XAU 7598000 7598000 7698000
XBJ 7000000 7000000 7330000
Cập nhật: 02/07/2024 09:00