"Cơn khát" năng lượng Nga và "cái khó" của Trung Quốc

12:26 | 26/05/2022

1,482 lượt xem
|
"Cơn khát" năng lượng Nga của người mua Trung Quốc đang bị ảnh hưởng bởi nhu cầu giảm và giá cả tăng vọt.
"Cơn khát" năng lượng Nga và "cái khó" của Trung Quốc

"Cơn khát" năng lượng Nga và "cái khó" của Trung Quốc

Theo South China Morning Post (SCMP), kể từ khi cuộc xung đột tại Ukraine nổ ra, mọi sự chú ý đổ dồn về Trung Quốc để xem liệu nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới sẽ hỗ trợ như thế nào cho quốc gia láng giềng phía Bắc khi là "đối tác chiến lược" về cả ngoại giao lẫn kinh tế.

Nhưng gần 3 tháng qua, Trung Quốc vẫn chưa có động thái hỗ trợ ngoại giao trực tiếp nào cũng như không bày tỏ thái độ về cuộc xung đột này như nhiều chính trị gia phương Tây mong đợi.

Mặt khác, các số liệu thương mại mới nhất giữa hai nước cũng cho thấy dường như Bắc Kinh đang bất chấp sức ép cắt đứt huyết mạch kinh tế Nga của phương Tây. Theo đó, trong tháng 4 giá trị nhập khẩu hàng hóa từ Nga của Trung Quốc đã tăng lên mức kỷ lục 8,98 tỷ USD, tăng 56,6% so với một năm trước đó và 13,3% so với tháng 3.

Tuy nhiên, bức tranh thực tế sắp tới có thể sẽ mờ nhạt hơn.

Bức tranh thương mại Nga - Trung

Theo các chuyên gia, thay vì đẩy mạnh mua hàng hóa Nga, Trung Quốc dường như đang "chùn tay" mua hàng do giá hàng hóa tăng quá cao, đặc biệt là khi các đợt phong tỏa dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến những khu vực giàu nhất của nước này trong 2 tháng qua, bóp nghẹt nền kinh tế và kìm hãm nhu cầu.

Cơn khát năng lượng Nga và cái khó của Trung Quốc - 1
Trong tháng 4, giá trị nhập khẩu hàng hóa từ Nga của Trung Quốc đã tăng lên mức kỷ lục 8,98 tỷ USD, tăng 56,6% so với một năm trước đó (Ảnh: AFP).

Trước đó, các quan chức Trung Quốc đã tuyên bố thương mại với Nga vẫn tiếp tục diễn ra bình thường bất chấp các lệnh trừng phạt của phương Tây. Nhưng đối với các nhà nhập khẩu Trung Quốc, họ cần tính toán liệu hàng hóa Nga bị nhiều nước khác xa lánh có đủ rẻ để bù đắp những rủi ro và không chắc chắn trong vấn đề thanh toán, vận chuyển và khả năng bị trừng phạt thứ cấp hay không.

Theo tính toán của SCMP dựa trên số liệu hải quan Trung Quốc, hiện nay, khoảng 80% hàng hóa nhập khẩu từ Nga của Trung Quốc là khoáng sản. Trong đó, dầu thô chiếm hơn 70%. Điều này có nghĩa là bất kỳ sự biến động nào của giá dầu thô trên toàn cầu cũng sẽ dẫn đến những thay đổi đáng kể trong tổng nhập khẩu hàng hóa Nga của Trung Quốc.

Tính toán của tờ này cũng chỉ ra rằng giá nhập khẩu dầu thô trung bình trong tháng 4 của Trung Quốc đã cao hơn 70,3% so với cùng kỳ năm 2021. Tương tự, giá dầu thô của Nga cũng đã tăng 50,9% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong tháng 3, nhập khẩu của Trung Quốc từ Nga tăng 26,39% so với cùng kỳ năm ngoái, tính theo đồng USD. Trong đó, nhập khẩu dầu thô tăng 29,93% so với năm ngoái. Còn trong tháng 4, con số này là 56,6% và 59,01%.

Trung Quốc được cho là đã nhập nhiều dầu thô của Nga kể từ khi cuộc chiến nổ ra hồi cuối tháng 2, đặc biệt khi các lệnh trừng phạt của phương Tây leo thang với việc Mỹ và Anh tuyên bố cấm nhập khẩu dầu Nga. EU trong tuần này cũng đưa ra kế hoạch chấm dứt sự phụ thuộc vào nhiên liệu Nga trong thời gian 5 năm.

Nhưng các số liệu thương mại, tính theo khối lượng, lại cho biết một câu chuyện hoàn toàn khác. Trong tháng 3, bất chấp giá trị nhập khẩu tăng lên, khối lượng nhập khẩu dầu Nga của Trung Quốc giảm 14,12% so với năm ngoái, tương đương mức giảm 14% trong tổng lượng nhập khẩu dầu thô mà nước này nhập khẩu trong tháng đó.

"Các lệnh trừng phạt nhằm làm giảm doanh thu của Nga cũng đồng nghĩa làm giảm nguồn cung cấp dầu và khí đốt của Nga trên thị trường toàn cầu. Điều này khiến thị trường toàn cầu bị thắt chặt và đẩy giá tăng cao", bà Michal Meidan, Giám đốc chương trình năng lượng Trung Quốc tại Oxford, cho biết.

Tuy nhiên, theo bà Meidan, không phải toàn bộ người mua ngừng nhập dầu khí của Nga. Ngay cả khối lượng nhập khẩu từ Nga giảm xuống thì với mức giá cao, doanh thu của Nga vẫn cao và còn có khả năng cao hơn so với trước đây.

Mặc dù khối lượng nhập khẩu từ Nga trong tháng 3 của Trung Quốc tăng 18% so với tháng trước, nhưng theo bà Yen Ling Song - Phó Giám đốc tại S&P Global Market Intelligence, đây có thể là những giao dịch được ký kết từ trước khi cuộc chiến xảy ra.

Trong tháng 4, lượng dầu Nga đến Trung Quốc chỉ tăng 2,2% so với tháng trước, trong khi từ tất cả các nguồn cung khác tăng 6,6%.

Lý giải cho điều này, Zha Daojiong, giáo sư của Trường nghiên cứu quốc tế tại Đại học Peking cho rằng, nhu cầu của Trung Quốc đang giảm xuống do các đợt phong tỏa chống dịch kéo dài ở Thượng Hải và nhiều nơi trên đất nước này. "Với đợt phong tỏa tại Thượng Hải, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu của thị trường Trung Quốc đã suy yếu hơn thông thường", Zha nói.

Trước khi cuộc chiến nổ ra, Trung Quốc đã tăng cường mua dầu thô của Nga để cung cấp cho các nhà máy lọc dầu độc lập do vị trí địa lý khá gần giúp giảm chi phí vận chuyển.

Năm 2021, 72% dầu thô của Trung Quốc được mua từ nước ngoài. Trong đó, nhập từ Nga khoảng 79,6 triệu tấn, tương đương 15,5% tổng nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc. Hầu hết dòng chảy dầu thô của Nga tới Trung Quốc là dầu ESPO Blend từ cảng Kozmino ở viễn đông.

Trung Quốc thận trọng mua dầu Nga

Mặc dù các lệnh trừng phạt của phương Tây đối với Nga cho đến nay vẫn chưa áp dụng với lĩnh vực xuất khẩu năng lượng, song theo một nhà nghiên cứu kiêm cố vấn cho chính phủ Trung Quốc về an ninh năng lượng, hầu hết người mua ở Trung Quốc đang thận trọng hơn khi giao dịch năng lượng hay đầu tư với Nga, bằng cách ngừng hoặc giảm mua, hoặc giao dịch qua bên thứ 3.

Nguồn tin này cho biết: "Các công ty lớn có hoạt động kinh doanh trên toàn cầu sẽ thận trọng hơn vì lo ngại rằng hoạt động kinh doanh của họ tại Mỹ hoặc trên toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng bởi các lệnh trừng phạt".

Tuy nhiên, Bloomberg mới đây đưa tin Bắc Kinh đang đàm phán với Moscow để mua thêm dầu nhằm tăng cường kho dự trữ chiến lược dầu thô của Trung Quốc. Các quan chức Nhà Trắng cho rằng điều này không trái với lệnh trừng phạt của Mỹ.

Cơn khát năng lượng Nga và cái khó của Trung Quốc - 2
Hầu hết người mua ở Trung Quốc đang thận trọng hơn khi giao dịch năng lượng hay đầu tư với Nga, bằng cách ngừng hoặc giảm mua, hoặc giao dịch qua bên thứ 3 (Ảnh: Bloomberg).

Không giống như các nhà máy lọc dầu thuộc sở hữu nhà nước được cho là phải thận trọng hơn khi là đại diện cho quốc gia, các nhà máy lọc dầu tư nhân có nhiều cơ hội hơn để mua dầu giá rẻ của Nga tuy nhiên họ lại gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận nguồn tài chính, bà Meidan cho biết.

Bà Song cũng lưu ý rằng các nhà máy lọc dầu tư nhân đang gặp khó khăn hơn trong việc thu xếp tài chính cho các chuyến hàng có xuất xứ từ Nga, đặc biệt nếu họ có các công ty giao dịch ở Singapore và giao dịch qua các ngân hàng châu Á, vốn cảnh giác với các lệnh trừng phạt.

Các chi nhánh nước ngoài của một số ngân hàng lớn Trung Quốc được cho là đã ngừng giao dịch tài chính liên quan đến hàng hóa Nga kể từ khi cuộc chiến bắt đầu vì lo sợ các lệnh trừng phạt của phương Tây.

Để giải quyết vấn đề này, theo bà Song, các ngân hàng có thể yêu cầu thanh toán trước cho các chuyến hàng. Nhưng trong bối cảnh giá dầu cao như hiện nay, điều này có thể "ngốn" khá nhiều vốn của các nhà máy lọc dầu quy mô nhỏ, khiến họ không mặn mà với việc mua dầu Nga.

Ngoài ra, theo bà Meidan, với việc Bắc Kinh tăng gấp đôi chính sách zero-Covid với việc hạn chế nghiêm ngặt các phương tiện vận chuyển liên vùng thì chưa rõ khi nào nhu cầu dầu thô của Trung Quốc sẽ phục hồi trở lại.

Khó chuyển hướng khí đốt sang Trung Quốc

Đối với khí đốt, Nga là nhà cung cấp khí đốt lớn thứ 3 cho Trung Quốc, sau Australia và Turkmenistan. Nhưng kể từ khi cuộc chiến nổ ra, giá trị nhập khẩu khí đốt qua các đường ống từ Nga đã giảm xuống, mặc dù giá khí đốt trên toàn cầu tăng vọt.

Cơn khát năng lượng Nga và cái khó của Trung Quốc - 3
Nga không thể chuyển hướng các đường ống khí đốt từ châu Âu sang Trung Quốc do những hạn chế về cơ sở hạ tầng (Ảnh: TNS).

Theo các chuyên gia, Nga không thể chuyển hướng các đường ống khí đốt từ châu Âu sang Trung Quốc do những hạn chế về cơ sở hạ tầng. Nhưng, theo bà Elizabeth Wishnick - nhà nghiên cứu cấp cao tại CNA, Nga sẽ có cơ hội bán khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) cho Trung Quốc.

Sau khi giảm 19,4% so với năm ngoái trong tháng 3, lượng nhập khẩu LNG từ Nga của Trung Quốc đã hồi phục trong tháng 4 khi tăng 79,63% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nhưng theo bà Wishnick, vận chuyển LNG lại là một trở ngại khác vì các tàu mang cờ hiệu quốc tế sẽ không nhận việc này, trong khi Nga lại thiếu các con tàu chuyên dụng chở LNG.

So với dầu, việc các công ty khai thác than của Nga giảm giá mạnh đã thu hút sự quan tâm của những người mua Trung Quốc. Theo tính toán của Post, than đá là sản phẩm quan trọng thứ 2 của Nga mà Trung Quốc nhập khẩu, với giá trị tương đương 1/8 giá trị của dầu thô.

Nhập khẩu than Nga của Trung Quốc đã tăng lên, đặc biệt sau khi Bắc Kinh dừng nhập khẩu than của Australia vào cuối năm 2020 do căng thẳng chính trị với Canberra. Năm 2021, Nga trở thành nhà cung cấp than lớn thứ 2 cho Trung Quốc sau Indonesia, cung cấp 52 triệu tấn bao gồm 37,3 triệu tấn than nhiệt và 10,7 triệu tấn than cốc, chiếm khoảng 14,4% tổng lượng nhập khẩu của Trung Quốc.

Cơn khát năng lượng Nga và cái khó của Trung Quốc - 4
Việc chính phủ Trung Quốc dỡ bỏ thuế nhập khẩu đối với việc nhập khẩu than từ các nguồn từ 1/5 đã hỗ trợ thêm cho than Nga (Ảnh: CNS).

Tuy nhiên, theo số liệu của hải quan Trung Quốc, tương tự dầu thô, khối lượng nhập khẩu than Nga trong tháng 3 cũng giảm 29,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân chủ yếu là do các thương nhân Trung Quốc hạn chế mua vì các ngân hàng đình chỉ cung cấp thư tín dụng (LCs) đối với các chuyến hàng than Nga, theo Pranay Shukla - Phó giám đốc tại S&P Global Market Intelligence.

Nhưng khi một số ngân hàng Trung Quốc thông báo nới lỏng hạn chế đối với việc phát hành LCs, nhu cầu của các khách hàng từ Trung Quốc đã tăng lên, bà Shukla cho biết.

Số liệu hải quan trong tháng 4 cho thấy, khối lượng nhập khẩu than từ Nga của Trung Quốc đã tăng 22,9% so với tháng 3. Ngoài ra, việc chính phủ Trung Quốc dỡ bỏ thuế nhập khẩu đối với việc nhập khẩu than từ các nguồn từ 1/5, trước đó chỉ có than của Indonesia được miễn thuế, đã hỗ trợ thêm cho than Nga.

"Trong tháng 5, nhập khẩu than từ nước ngoài của Trung Quốc được dự báo sẽ đạt mức cao nhất mọi thời đại từ 7,5 - 8,5 triệu tấn", bà Shukla nói.

Tuy vậy, theo các nhà phân tích, yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến các loại hình giao dịch thương mại năng lượng với Nga là nhu cầu của Trung Quốc đang bị kìm hãm bởi chính sách zero-Covid của nước này.

Trong báo cáo mới nhất về tình hình tiêu thụ điện của Trung Quốc, Fitch Ratings cho biết nhiều khu vực ở Trung Quốc đóng cửa để ngăn chặn dịch Covid-19 đã làm giảm lượng tiêu thụ điện khiến cho nhu cầu về than giảm xuống.

"Giá than nhập khẩu cao hơn đáng kể so với giá than trong nước trong bối cảnh nguồn cung toàn cầu thắt chặt, đang gây áp lực lên biên lợi nhuận của các nhà máy nhiệt điện, đặc biệt là những nhà máy phụ thuộc nhiều vào than nhập khẩu", báo cáo cho biết.

Nội dung: Nhật Linh

26/05/2022

Theo Dân trí

Nga tuyên bố trả nợ bằng đồng rúp khi lệnh miễn trừ của Mỹ hết hạnNga tuyên bố trả nợ bằng đồng rúp khi lệnh miễn trừ của Mỹ hết hạn
Tại sao Ấn Độ chọn trung lập trong cuộc xung đột Nga-Ukraine?Tại sao Ấn Độ chọn trung lập trong cuộc xung đột Nga-Ukraine?
Tổng thống Putin: Nga chống chọi tốt trước đòn trừng phạt của phương TâyTổng thống Putin: Nga chống chọi tốt trước đòn trừng phạt của phương Tây
Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO: Được và mất?Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO: Được và mất?
Nga dừng cung cấp điện cho LithuaniaNga dừng cung cấp điện cho Lithuania
Hungary cảnh báo lệnh trừng phạt Nga Hungary cảnh báo lệnh trừng phạt Nga "như bom hạt nhân"
Nga cấm Tổng thống Joe Biden và loạt quan chức Mỹ nhập cảnhNga cấm Tổng thống Joe Biden và loạt quan chức Mỹ nhập cảnh
Trung Quốc tăng mua dầu giá rẻ của Nga khiến dầu Iran ế ẩmTrung Quốc tăng mua dầu giá rẻ của Nga khiến dầu Iran ế ẩm

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Hà Nội - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Đà Nẵng - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Miền Tây - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Tây Nguyên - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Cập nhật: 25/11/2025 23:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
Miếng SJC Nghệ An 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
Miếng SJC Thái Bình 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
NL 99.99 14,230 ▲170K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230 ▲170K
Trang sức 99.9 14,540 ▲250K 15,140 ▲250K
Trang sức 99.99 14,550 ▲250K 15,150 ▲250K
Cập nhật: 25/11/2025 23:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 ▲25K 15,292 ▲250K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 ▲25K 15,293 ▲250K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 ▲2K 1,505 ▲20K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 ▲2K 1,506 ▲20K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,465 ▲20K 1,495 ▲20K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,352 ▲198K 14,802 ▲198K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,786 ▲1500K 112,286 ▲1500K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,432 ▲136K 10,182 ▲136K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,854 ▲1220K 91,354 ▲1220K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,817 ▲1166K 87,317 ▲1166K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,998 ▲834K 62,498 ▲834K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Cập nhật: 25/11/2025 23:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16499 16767 17345
CAD 18147 18423 19038
CHF 31918 32299 32941
CNY 0 3470 3830
EUR 29777 30049 31077
GBP 33826 34215 35141
HKD 0 3260 3462
JPY 161 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14471 15058
SGD 19703 19984 20508
THB 731 794 848
USD (1,2) 26103 0 0
USD (5,10,20) 26145 0 0
USD (50,100) 26173 26193 26403
Cập nhật: 25/11/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,014 30,038 31,175
JPY 165.61 165.91 172.86
GBP 34,215 34,308 35,106
AUD 16,780 16,841 17,286
CAD 18,385 18,444 18,966
CHF 32,308 32,408 33,078
SGD 19,858 19,920 20,539
CNY - 3,671 3,768
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 780.33 789.97 841.1
NZD 14,485 14,619 14,967
SEK - 2,718 2,797
DKK - 4,014 4,130
NOK - 2,537 2,611
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,970.93 - 6,697.25
TWD 759.77 - 914.16
SAR - 6,932.04 7,256.31
KWD - 83,806 88,590
Cập nhật: 25/11/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 25/11/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26079 26079 26403
AUD 16682 16782 17705
CAD 18331 18431 19444
CHF 32176 32206 33792
CNY 0 3685.7 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29965 29995 31718
GBP 34129 34179 35940
HKD 0 3390 0
JPY 165.27 165.77 176.29
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14583 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19867 19997 20725
THB 0 760.7 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 25/11/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,403
USD20 26,198 26,248 26,403
USD1 26,198 26,248 26,403
AUD 16,726 16,826 17,935
EUR 30,113 30,113 31,227
CAD 18,278 18,378 19,689
SGD 19,930 20,080 20,646
JPY 165.69 167.19 171.76
GBP 34,203 34,353 35,126
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,567 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 25/11/2025 23:45