Chính sách tiền tệ trước bài toán cân bằng các mục tiêu

09:26 | 23/09/2016

291 lượt xem
|
NHNN đang đứng trước nhiều mục tiêu đan xen vừa hỗ trợ tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, lại vừa phải giữ mặt bằng lãi suất, tỷ giá ổn định.

Xoay xở trong thế lưỡng nan

Trong suốt những năm qua, CSTT luôn phải gánh vác nhiều mục tiêu: ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, hỗ trợ DN, thúc đẩy tăng trưởng... Năm 2016 cũng không ngoại lệ. Từ đầu năm đến nay, NHNN tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp để ổn định thị trường tiền tệ, giữ ổn định mặt bằng lãi suất, tạo điều kiện cho các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hỗ trợ cho nền kinh tế.

Đến 31/8/2016, tín dụng toàn ngành tăng 9,67%, lãi suất cho vay giảm 0,5%/năm dù chịu rất nhiều sức ép…

Theo TS. Võ Trí Thành - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia, thời gian qua, dường như CSTT có chút nới lỏng để đạt mục tiêu tăng trưởng của Quốc hội, Chính phủ đề ra. Dù đạt được kết quả tích cực, nhưng NHNN không nên chủ quan với công cụ điều hành và nhất là phải đảm bảo mục tiêu xuyên suốt là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát của mình.

chinh sach tien te truoc bai toan can bang cac muc tieu
Về lâu dài, để xử lý vấn đề bất cập chính sách đa mục tiêu, theo TS. Cấn Văn Lực phải làm rõ tính mục tiêu của NHNN

Nếu chỉ đơn thuần với một mục tiêu ổn định kinh tế, kiểm soát lạm phát thì NHNN có thể điều chỉnh tăng lãi suất theo tín hiệu thị trường. Còn nếu để đạt được cả trọng trách hỗ trợ tăng trưởng thì NHNN không thể làm như vậy, mà ngược lại phải giảm lãi suất để thúc đẩy cung tín dụng tăng. Tín dụng tăng nhanh thì lại tác động ngược đến lạm phát.Một thành viên khác của Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia nhìn nhận: NHNN đang nới lỏng CSTT nhưng trong thận trọng chứ không phải nới bung như giai đoạn 2001 - 2010 khi mà tín dụng tăng trưởng lên đến 30%. NHNN đang đứng trước nhiều mục tiêu đan xen vừa hỗ trợ tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, lại vừa phải giữ mặt bằng lãi suất, tỷ giá ổn định.

“Chính vì thế NHNN luôn bị đặt vào thế tiến thoái lưỡng nan vừa phải làm cái này nhưng vẫn phải làm cái kia mà không làm không được. Vì chính sách đa mục tiêu, nên NHNN phải linh hoạt trong điều hành, có những ứng biến, quyết sách hợp lý. Xét ở góc độ này, thời gian qua, NHNN đã vượt qua bài test của thị trường khá tốt”, vị chuyên gia trên nhận xét.

Cân bằng các mục tiêu

Ưu điểm của chính sách đa mục tiêu là tương đối linh hoạt, uyển chuyển nhưng các chuyên gia này cũng chỉ ra nhược điểm là NHNN không đạt mục tiêu lâu dài cũng như không tránh khỏi những “phản ứng” phụ. Ông lấy ví dụ, thời gian qua, NHNN đã sử dụng công cụ tín phiếu khá tốt qua thị trường mở, điều hòa lượng tiền cung ứng, giữ mặt bằng lãi suất ổn định, tăng dự trữ ngoại hối...

Song cũng không loại trừ khả năng có những thời điểm lượng tiền NHNN hút về không được như mong muốn. Vì thế, theo TS. Võ Trí Thành có ba lý do khiến chúng ta phải hết sức thận trọng trong việc kiểm soát cung tiền và tín dụng trong thời gian tới.

Thứ nhất, nguy cơ nợ xấu vẫn còn khá là hiện hữu. Cho nên vấn đề ở đây là mở rộng cung tín dụng nhưng chất lượng vẫn phải được kiểm soát tốt. Thứ hai là áp lực đối với tỷ giá, lãi suất giảm nhưng vẫn cần đề phòng những tháng cuối năm. Đơn cử, bà Janet Yellen, Chủ tịch FED đang phát đi khả năng FED tăng lãi suất dù mức điều chỉnh dự báo là không nhiều. Đây là yếu tố cũng phải tính toán trong bài toán tổng thể.

Áp lực sẽ lại càng lớn nếu nhà điều hành vẫn theo hướng nới lỏng chính sách. Vấn đề thứ ba, theo phân tích của TS. Thành cũng khá quan trọng là trong bối cảnh ngân sách hết sức khó khăn, nới lỏng tiền tệ có thể tạo ra một kỳ vọng tâm lý không tốt về khả năng ổn định kinh tế vĩ mô.

Do đó bên cạnh việc hỗ trợ tăng trưởng NHNN vẫn phải đảm bảo các mục tiêu ổn định vĩ mô. Quan trọng nữa đó là phải cho thị trường thấy được tính kỷ luật của ngân sách được củng cố nhanh, mạnh và rõ ràng. Nếu không thị trường sẽ mất lòng tin. Vì thế, vị này hy vọng, NHNN tiếp tục kiên định trong việc duy trì điều hành CSTT linh hoạt, đảm bảo hỗ trợ tăng trưởng về chất lượng thay vì số lượng.

“Thiếu lòng tin vào sự ổn định, trước mắt cũng như trong trung hạn, điều đó là không tốt”, TS. Thành cảnh báo. Cùng chung quan điểm, khối nghiên cứu của HSBC cũng đã khuyến nghị nên thận trọng khi sử dụng các chính sách khuyến khích kinh tế, nhất là khi hiệu quả công cụ chính sách tài khóa của Chính phủ vẫn còn hạn chế.

Về lâu dài, để xử lý vấn đề bất cập chính sách đa mục tiêu, theo TS. Cấn Văn Lực phải làm rõ tính mục tiêu của NHNN, đồng thời phân vai Bộ Tài chính phải cụ thể hơn. Như hiện nay, NHNN đang gánh vai cả cho chính sách tài khóa.

Còn để giữ được mục tiêu trước mắt, từ nay đến cuối năm, ông Lực cho rằng, trong điều hành CSTT không chủ quan với lạm phát. Muốn làm việc đó NHNN phải bám sát diễn biến tình hình thị trường cả trong nước và quốc tế, nhất là theo dõi sát khả năng FED tăng lãi suất cũng như việc điều chỉnh tỷ giá của những nước có quan hệ thương mại đầu tư lớn với Việt Nam.

Câu chuyện phối hợp chính sách đặc biệt với chính sách tài khóa, chính sách kiểm soát giá cả phải tiếp tục được thực hiện tốt hơn. Đối với tín dụng, quan điểm của TS. Lực là nên kiểm soát ở mức tăng trưởng 16 - 18% là phù hợp với dự kiến tăng GDP 6,1 – 6,3%. Sử dụng nhiều công cụ để giữ ổn định mặt bằng lãi suất, kể cả trong bối cảnh áp lực lạm phát có thể bị tăng lên, là đề xuất của TS. Lực để tránh xáo trộn về tâm lý thị trường.

Mặt khác, NHNN cần phải khẩn trương hoàn thiện Đề án tái cơ cấu các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn II. Đây là một trong những vấn đề hết sức quan trọng trong câu chuyện tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế giai đoạn II cũng như là tầm quan trọng việc thúc đẩy tiến trình xử lý nợ xấu.

Có thể nói, trong 5 năm qua, các công cụ CSTT được sử dụng rất thận trọng. Mặc dù có những thời điểm tăng trưởng thấp và gặp nhiều khó khăn nhưng NHNN vẫn duy trì sự cẩn trọng này để đảm bảo mục tiêu xuyên suốt ổn định kinh tế vĩ mô.

Đến thời điểm này, các chuyên gia cũng như thị trường vẫn kỳ vọng chính sách này tiếp tục được duy trì trong những năm tới. Bởi, việc sử dụng mô hình nới lỏng CSTT để thúc đẩy tăng trưởng sẽ gặp rất nhiều rủi ro nhất là đối với các nước đang phát triển nền tảng kinh tế vĩ mô chưa thực sự vững chắc.

Hà Thành

Thời báo Ngân hàng

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 143,800 146,800
Hà Nội - PNJ 143,800 146,800
Đà Nẵng - PNJ 143,800 146,800
Miền Tây - PNJ 143,800 146,800
Tây Nguyên - PNJ 143,800 146,800
Đông Nam Bộ - PNJ 143,800 146,800
Cập nhật: 06/11/2025 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,550 14,750
Miếng SJC Nghệ An 14,550 14,750
Miếng SJC Thái Bình 14,550 14,750
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,450 14,750
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,450 14,750
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,450 14,750
NL 99.99 13,780
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,780
Trang sức 99.9 14,040 14,640
Trang sức 99.99 14,050 14,650
Cập nhật: 06/11/2025 02:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,455 14,752
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,455 14,753
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,427 1,452
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,427 1,453
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,412 1,442
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,272 142,772
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 100,811 108,311
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,716 98,216
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,621 88,121
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,727 84,227
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,787 60,287
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 1,475
Cập nhật: 06/11/2025 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16526 16795 17369
CAD 18100 18375 18989
CHF 31820 32201 32845
CNY 0 3470 3830
EUR 29595 29866 30892
GBP 33511 33898 34830
HKD 0 3254 3456
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14550 15136
SGD 19601 19882 20402
THB 724 787 841
USD (1,2) 26057 0 0
USD (5,10,20) 26098 0 0
USD (50,100) 26127 26146 26351
Cập nhật: 06/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,131 26,131 26,351
USD(1-2-5) 25,086 - -
USD(10-20) 25,086 - -
EUR 29,843 29,867 31,001
JPY 168.25 168.55 175.58
GBP 33,902 33,994 34,787
AUD 16,847 16,908 17,347
CAD 18,356 18,415 18,940
CHF 32,234 32,334 33,011
SGD 19,761 19,822 20,441
CNY - 3,646 3,743
HKD 3,335 3,345 3,427
KRW 16.81 17.53 18.86
THB 773.44 782.99 833.15
NZD 14,598 14,734 15,082
SEK - 2,709 2,787
DKK - 3,994 4,109
NOK - 2,542 2,616
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,883.54 - 6,599.25
TWD 770.79 - 927.44
SAR - 6,920 7,243.82
KWD - 83,601 88,404
Cập nhật: 06/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,130 26,131 26,351
EUR 29,630 29,749 30,877
GBP 33,620 33,755 34,731
HKD 3,317 3,330 3,437
CHF 31,917 32,045 32,947
JPY 167.83 168.50 175.58
AUD 16,682 16,749 17,295
SGD 19,764 19,843 20,380
THB 786 789 824
CAD 18,304 18,378 18,909
NZD 14,584 15,081
KRW 17.45 19.07
Cập nhật: 06/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26169 26169 26351
AUD 16705 16805 17738
CAD 18280 18380 19394
CHF 32057 32087 33673
CNY 0 3657.5 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29769 29799 31525
GBP 33804 33854 35615
HKD 0 3390 0
JPY 167.76 168.26 178.77
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14660 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19755 19885 20613
THB 0 753.8 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14550000 14550000 14750000
SBJ 13000000 13000000 14750000
Cập nhật: 06/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,149 26,199 26,351
USD20 26,149 26,199 26,351
USD1 26,149 26,199 26,351
AUD 16,778 16,878 17,991
EUR 29,933 29,933 31,250
CAD 18,250 18,350 19,657
SGD 19,832 19,982 20,510
JPY 168.44 169.94 174.53
GBP 33,859 34,009 35,050
XAU 14,498,000 0 14,702,000
CNY 0 3,542 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/11/2025 02:00