Bước ngoặt mới của chính sách tiền tệ toàn cầu

11:00 | 01/02/2023

71 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), triển vọng kinh tế toàn cầu đã bớt ảm đạm hơn so với dự báo trước đây và có thể đại diện cho một bước ngoặt mới với kỳ vọng chính sách tiền tệ ít thắt chặt hơn.

Tăng trưởng toàn cầu chạm đáy

Theo Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới mới nhất của IMF, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ giảm từ mức ước tính 3,4% năm 2022 xuống 2,9% năm 2023, sau đó tăng lên 3,1% năm 2024. Dự báo mới nhất này cho năm 2023 cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với dự đoán hồi tháng 10 vừa qua.

Anh là nền kinh tế phát triển duy nhất mà IMF cho là sẽ rơi vào suy thoái trong năm nay
Anh là nền kinh tế phát triển duy nhất mà IMF cho là sẽ rơi vào suy thoái trong năm nay

Chuyên gia kinh tế trưởng của IMF Pierre-Olivier Gourinchas đánh giá, nền kinh tế toàn cầu có thể sẽ chậm lại trong năm nay, trước khi hồi phục vào năm tới. Theo các tiêu chuẩn, tăng trưởng sẽ vẫn yếu khi cuộc chiến chống lạm phát và xung đột Nga - Ukraine đè nặng lên các hoạt động.

“Bất chấp những cơn gió ngược này, triển vọng được xem là ít ảm đạm hơn so với dự báo tháng 10 của chúng tôi và có thể đại diện cho một bước ngoặt mới, với tăng trưởng chạm đáy và lạm phát giảm”, ông Gourinchas cho biết.

Báo cáo cũng cho biết, mặc dù dự báo tăng trưởng thấp hơn mức trung bình hàng năm trong lịch sử là 3,8%, nhưng GDP toàn cầu sẽ không tăng trưởng âm. Tăng trưởng âm thường diễn ra trong các cuộc suy thoái toàn cầu.

Như vậy, dự báo của IMF được cải thiện kể từ tháng 10, khi tổ chức này dự kiến nền kinh tế lớn nhất thế giới chỉ tăng trưởng 1% vào năm 2023 so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, sự thay đổi lạc quan hơn lên 1,4% đối với Mỹ phản ánh tác động chuyển đổi từ khả năng phục hồi của nhu cầu trong nước vào năm 2022. Người tiêu dùng Mỹ đã tiếp tục chi tiêu từ khoản tiết kiệm của họ trong quý cuối cùng của năm.

“Vào năm 2024, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ được dự đoán là 1% và tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ, mặc dù cũng được dự đoán là sẽ giảm so với năm ngoái, nhưng có thể thúc đẩy làn sóng nhu cầu trong nước vào năm 2024 và đạt 6,8%”, IMF dự báo.

Định chế có trụ sở ở Washington DC cũng lạc quan hơn về kinh tế châu Âu, dự báo khu vực Eurozone sẽ đạt mức tăng trưởng 0,7% trong năm nay, tăng 0,2 điểm phần trăm so với con số dự báo 0,5% đưa ra hồi tháng 10. Đây vẫn là một sự giảm tốc mạnh so với mức tăng trưởng 3,5% mà Eurozne đạt được trong năm 2022, nhưng IMF đánh giá rằng châu Âu đã thích nghi với sự leo thang của giá năng lượng một cách nhanh hơn so với dự kiến và việc giá năng lượng xuống thấp gần đây đã giúp ích cho khu vực.

Anh là nền kinh tế phát triển duy nhất mà IMF cho là sẽ rơi vào suy thoái trong năm nay, với mức suy giảm GDP dự báo là 0,6%, trong bối cảnh các hộ gia đình ở nước này phải vật lộn với chi phí sinh hoạt leo thang, bao gồm giá năng lượng và giá thuê nhà.

Dù lạm phát toàn phần đã giảm ở nhiều quốc gia, nhưng việc nới lỏng quá sớm các điều kiện tài chính, sẽ khiến cho thị trường trở nên dễ tổn thương một khi lạm phát lõi dai dẳng ở mức cao.

Theo ông Gourinchas, lạm phát lõi có thể đã đỉnh ở một số nước như Mỹ, các ngân hàng trung ương vẫn cần giữ cảnh giác và đảm bảo chắc chắn rằng lạm phát đang giảm bền vững, nhất là những nền kinh tế mà lãi suất thực đang thấp như châu Âu.

Vị chuyên gia kinh tế khuyến nghị các nước “ít nhất nên đưa chính sách tiền tệ thắt chặt hơn một chút so với ngưỡng trung tính và duy trì ở đó. Tiếp đó, các nước nên đánh giá xem điều gì đang diễn ra với các động lực giá cả và cách thức phản ứng của nền kinh tế. Sẽ còn nhiều thời gian để điều chỉnh hướng đi nhằm tránh việc thắt chặt quá mức”.

Trung Quốc: Xử lý khủng hoảng thanh khoản

Nhìn sang nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, IMF đã nâng dự báo GDP năm 2023 của Trung Quốc lên 5,2% do quốc gia này mở cửa trở lại hoàn toàn. Mức tăng trưởng như vậy dự kiến sẽ có ý nghĩa quan trọng khi nền kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ chậm lại bởi lạm phát và những tác động liên tục của cuộc chiến tại Ukraine.

IMF cho biết việc Trung Quốc mở cửa trở lại đã cải thiện triển vọng kinh tế toàn cầu trong năm nay sau một năm 2022 đầy biến động. Ảnh: Reuters
IMF cho biết việc Trung Quốc mở cửa trở lại đã cải thiện triển vọng kinh tế toàn cầu trong năm nay sau một năm 2022 đầy biến động. Ảnh: Reuters

Trong năm 2022, Trung Quốc đã không đạt được kỳ vọng khi chỉ tăng trưởng 3%. Điều này đánh dấu lần đầu tiên sau hơn 40 năm GDP của Trung Quốc không đạt được mức trung bình toàn cầu, khoảng 3,4% cho năm 2022.

Báo cáo lưu ý rằng, nhu cầu bị dồn nén tích tụ trong quá trình Trung Quốc xử lý nghiêm ngặt đại dịch có thể dẫn đến sự phục hồi mạnh mẽ hơn ở nước này. Tuy nhiên, có một số rủi ro tiêu cực bắt nguồn từ chính Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến triển vọng toàn cầu. Một trong số đó là sự phục hồi kinh tế của đất nước đang bị đình trệ do sự lây lan mạnh mẽ của Covid-19 kể từ tháng trước. Mức độ miễn dịch của người dân Trung Quốc vẫn còn thấp và nhiều bệnh viện đã phải vật lộn để xử lý lượng bệnh nhân gia tăng sau đó, đặc biệt là bên ngoài các khu vực đô thị lớn.

Một nguồn dễ bị tổn thương lớn khác đối với nền kinh tế toàn cầu là thị trường bất động sản căng thẳng của Trung Quốc. Nhu cầu của người tiêu dùng yếu và các vấn đề về chuỗi cung ứng cũng có thể có tác động lan tỏa đến phần còn lại của thế giới.

IMF khuyến nghị, các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc cần phải giải quyết cuộc khủng hoảng tài sản và giảm thiểu rủi ro tác động lan tỏa đe dọa sự ổn định và tăng trưởng tài chính.

Về những cảnh báo này, tờ Tân Hoa Xã mới đây đã đưa tin rằng, Bắc Kinh đang thực sự đưa vấn đề này lên hàng đầu trong chương trình nghị sự của mình. Theo đó, các cơ quan quản lý tài chính hàng đầu đã soạn thảo một gói 21 nhiệm vụ chính nhằm giảm bớt tình trạng khủng hoảng thanh khoản, với khoản tài trợ trị giá 450 tỷ Nhân dân tệ (66,3 tỷ USD) bên cạnh các khoản gia hạn nợ.

Kế hoạch này nhằm tăng tốc độ cho vay 150 tỷ Nhân dân tệ trong các khoản vay đã công bố trước đó tập trung vào việc giao nhà và thành lập thêm quỹ đặc biệt 200 tỷ Nhân dân tệ để giao tài sản cho dân cư. Nước này cũng sẽ triển khai kế hoạch hỗ trợ 100 tỷ Nhân dân tệ cho các khoản vay mua nhà cho thuê.

Riêng với Trung Quốc, IMF cũng dự đoán tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Trung Quốc sẽ giảm xuống 4,5% vào năm 2024 trước khi giảm xuống dưới 4% trong trung hạn, do sự năng động của doanh nghiệp giảm xuống và tiến độ cải cách cơ cấu chậm lại.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Chính sách lao động, việc làm, an sinh xã hội phải toàn diện, bao trùmChính sách lao động, việc làm, an sinh xã hội phải toàn diện, bao trùm
Tăng sức mạnh từ chính sách tài khoáTăng sức mạnh từ chính sách tài khoá
Thủ tướng Scholz nêu chính sách tiếp cận 3 mũi nhọn của Đức về UkraineThủ tướng Scholz nêu chính sách tiếp cận 3 mũi nhọn của Đức về Ukraine

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,500 ▲300K 119,500 ▲300K
AVPL/SJC HCM 117,500 ▲300K 119,500 ▲300K
AVPL/SJC ĐN 117,500 ▲300K 119,500 ▲300K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,970 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,960 11,240
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.500 115.000
TPHCM - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Hà Nội - PNJ 112.500 115.000
Hà Nội - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Đà Nẵng - PNJ 112.500 115.000
Đà Nẵng - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Miền Tây - PNJ 112.500 115.000
Miền Tây - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▲800K 120.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.300 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.190 114.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.480 113.980
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.250 113.750
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.750 86.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.810 67.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.410 47.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.760 105.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.680 70.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.270 74.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.710 78.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.700 43.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.530 38.030
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,040 11,490
Trang sức 99.9 11,030 11,480
NL 99.99 10,800 ▼50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,800 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,250 11,550
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,250 11,550
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,250 11,550
Miếng SJC Thái Bình 11,800 ▲100K 12,000 ▲80K
Miếng SJC Nghệ An 11,800 ▲100K 12,000 ▲80K
Miếng SJC Hà Nội 11,800 ▲100K 12,000 ▲80K
Cập nhật: 13/05/2025 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16048 16315 16890
CAD 18038 18313 18931
CHF 30107 30481 31121
CNY 0 3358 3600
EUR 28182 28448 29477
GBP 33409 33796 34728
HKD 0 3198 3400
JPY 168 172 179
KRW 0 17 18
NZD 0 14921 15512
SGD 19350 19630 20154
THB 693 756 809
USD (1,2) 25678 0 0
USD (5,10,20) 25716 0 0
USD (50,100) 25744 25778 26120
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,790 25,790 26,150
USD(1-2-5) 24,758 - -
USD(10-20) 24,758 - -
GBP 33,792 33,883 34,780
HKD 3,273 3,283 3,383
CHF 30,320 30,415 31,250
JPY 172.06 172.37 180.06
THB 741.37 750.53 803
AUD 16,301 16,360 16,802
CAD 18,319 18,377 18,874
SGD 19,568 19,629 20,240
SEK - 2,602 2,694
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,801 3,932
NOK - 2,444 2,530
CNY - 3,567 3,665
RUB - - -
NZD 14,874 15,012 15,443
KRW 17.06 17.79 19.1
EUR 28,394 28,417 29,632
TWD 773.78 - 936.8
MYR 5,593.95 - 6,313.23
SAR - 6,807.61 7,165.5
KWD - 82,156 87,497
XAU - - -
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,760 25,770 26,110
EUR 28,231 28,344 29,444
GBP 33,594 33,729 34,696
HKD 3,263 3,276 3,382
CHF 30,184 30,305 31,204
JPY 171.27 171.96 179
AUD 16,251 16,316 16,845
SGD 19,545 19,623 20,158
THB 757 760 793
CAD 18,245 18,318 18,827
NZD 14,989 15,495
KRW 17.49 19.26
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25768 25768 26128
AUD 16207 16307 16873
CAD 18213 18313 18869
CHF 30326 30356 31240
CNY 0 3572.8 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28450 28550 29325
GBP 33694 33744 34857
HKD 0 3355 0
JPY 171.85 172.85 179.41
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15021 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19508 19638 20366
THB 0 720.7 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12000000
XBJ 11000000 11000000 12000000
Cập nhật: 13/05/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,790 25,840 26,220
USD20 25,790 25,840 26,220
USD1 25,790 25,840 26,220
AUD 16,226 16,376 17,447
EUR 28,521 28,671 29,853
CAD 18,163 18,263 19,578
SGD 19,596 19,746 20,213
JPY 172.49 173.99 178.63
GBP 33,807 33,957 34,755
XAU 11,748,000 0 11,952,000
CNY 0 3,454 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/05/2025 11:00