Giải bài toán năng lượng cho phát triển

Định vị vai trò của thủy điện

09:49 | 07/04/2017

8,073 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trong sự phát triển kinh tế đất nước sau hơn 30 năm đổi mới, thủy điện đóng vai trò vô cùng to lớn, là một cấu phần quan trọng của ngành điện đảm bảo cung ứng điện cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Và theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2020, tổng công suất các nguồn thủy điện sẽ đạt khoảng 21.600MW; khoảng 24.600MW vào năm 2025 và 27.800MW vào năm 2030. Điện năng sản xuất từ nguồn thủy điện chiếm tỷ trọng tương ứng là 29,5-20,5% và 15,5%. Như vậy, có thể nói, đến thời điểm hiện tại và cả tương lai gần, thủy điện vẫn là 1 trong 3 nguồn năng lượng chính đáp ứng nhu cầu điện quốc gia.

Hai mặt sáng - tối

Theo GS.TSKH Phạm Hồng Giang - nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trên thế giới, không nơi nào có nguồn thủy năng mà con người không tận dụng, vì đây là nguồn năng lượng sạch, có khả năng tái tạo và được ưu tiên phát triển, đặc biệt trong bối cảnh sản lượng điện từ than, dầu mỏ… đang dần cạn kiệt. Thủy điện chiếm khoảng 15-20% tổng sản lượng điện của thế giới và chiếm tới 95% tổng sản lượng năng lượng tái tạo. Và tại Việt Nam, thủy điện hiện vẫn chiếm khoảng 35% tổng sản lượng điện toàn hệ thống.

Không chỉ đóng góp sản lượng điện lớn cho việc đảm bảo cung ứng điện, thủy điện còn góp phần quan trọng trong việc tạo nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội tại nhiều địa phương. Ví như ở các tỉnh Tây Bắc, miền Trung - Tây Nguyên, sản xuất điện đóng góp trên 30-40% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh và mang lại nguồn thu cho ngân sách địa phương hàng nghìn tỉ đồng mỗi năm. Đơn cử như Thủy điện Hòa Bình đã nộp ngân sách đạt 900 - 1.200 tỉ đồng/năm, xấp xỉ 50% tổng thu ngân sách của tỉnh Hòa Bình; Thủy điện Sơn La đóng góp cho ngân sách địa phương trên 1.000 tỉ đồng; thủy điện Lai Châu, chỉ tính riêng năm 2016, đã đóng góp đạt 474,352 tỉ đồng, nộp quỹ dịch vụ môi trường rừng 184,75 tỉ đồng. Tương tự, các thủy điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) ở khu vực miền Trung cũng đóng góp hàng trăm tỉ đồng đến gần 1.000 tỉ đồng cho ngân sách địa phương.

dinh vi vai tro cua thuy dien

Ngoài ra, theo báo cáo của EVN cho thấy, chỉ riêng 3 hồ thủy điện Hòa Bình, Tuyên Quang và Thác Bà đã cấp hàng tỉ m3 nước phục vụ tưới cho hơn 600.000 ha đất nông nghiệp của Đồng bằng Bắc Bộ và Trung du miền núi phía Bắc. Các hồ thủy điện của EVN khu vực miền Trung - Tây Nguyên như Đa Nhim, Ialy, sông Tranh, sông Bung, Đồng Nai... cũng điều tiết hàng tỉ m3 nước cho sản xuất lúa, hoa màu, cây công nghiệp cà phê, ca cao..., gần đây là việc chống hạn, đẩy mặn cho khu vực hạ lưu.

Một lợi ích khác mà thủy điện mang lại là bảo vệ môi trường, giảm phát thải. Lượng khí nhà kính mà thủy điện thải ra nhỏ hơn 10 lần so với các nhà máy turbine khí chu trình hỗn hợp và nhỏ hơn 25 lần so với các nhà máy nhiệt điện than. Nếu tiềm năng thủy năng thực tế còn lại được sử dụng thay cho các nhà máy nhiệt điện đốt nhiên liệu hóa thạch thì hằng năm có thể tránh được 7 tỉ tấn khí thải.

Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực thì thủy điện cũng bộc lộ nhiều điểm hạn chế. Theo TS Phạm Thị Thu Hà - Trường Đại học Bách khoa Hà Nội: Việc phát triển thủy điện không hợp lý đã gây những tác động tiêu cực đến nguồn tài nguyên, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân, mà điển hình là các sự cố. Điển hình là cuối tháng 9-2009, quy trình vận hành hồ thủy điện A Vương không hợp lý dẫn đến việc xả lũ ồ ạt gây nên trận lũ lớn tại Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Hay công trình Thủy điện Sông Tranh 2 do yếu tố động đất liên tục, khu vực lòng hồ đã gây rò rỉ nứt trên thân đập, dù đã được xử lý nhưng người dân chưa thể an tâm…

Vì đâu để xảy ra các sự cố?

Nguyên nhân dẫn đến các sự cố từ thủy điện, không thể không nói đến công tác quản lý Nhà nước từ quá trình quy hoạch, cấp phép, kiểm tra, giám sát các nhà máy thủy điện, nhất là các thủy điện nhỏ.

Trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015, có xét đến năm 2025 (Quy hoạch điện VI) ghi rõ, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với mức tăng GDP khoảng 8,5-9%/năm giai đoạn 2006-2010 và cao hơn, dự báo nhu cầu điện nước ta tăng ở mức 17% năm (phương án cơ sở), 20% năm (phương án cao) trong giai đoạn 2006-2015, trong đó xác định phương án cao là phương án điều hành, chuẩn bị phương án 22% năm cho trường hợp tăng trưởng đột biến... vì vậy cần phát triển nguồn điện đáp ứng nhu cầu phụ tải cao, trong đó có thủy điện, thủy điện nhỏ, năng lượng mới và tái tạo cho các vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo...

Từ năm 2006 trở về trước, Chính phủ phê duyệt hệ thống bậc thang trên các sông, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) phê duyệt quy hoạch dự án riêng lẻ, nhưng từ năm 2006 trở lại đây theo phân cấp, tất cả các quy hoạch thủy điện nhỏ giao địa phương phê duyệt. Sự phân cấp này được khẳng định lại tại Thông tư 43/2012/TT-BCT của Bộ Công Thương ngày 27-12-2012.

Nhiều chuyên gia cho rằng, chủ trương khuyến khích phát triển nguồn điện; sự phân cấp trong quy hoạch cấp phép cùng mong muốn của địa phương là tăng thêm giá trị sản xuất công nghiệp, nguồn thu ngân sách... đặc biệt là có cả những toan tính lợi ích từ doanh nghiệp dẫn đến tình trạng “nhà nhà làm thủy điện”. Công tác phê duyệt, quản lý chất lượng, quy trình vận hành... có phần lơ là, buông lỏng, mặc dù các quy định về quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng dự án thủy điện và vận hành khai thác công trình thủy điện khá chi tiết từ trách nhiệm, các yêu cầu về điều tra khảo sát, đánh giá đầy đủ từ điều kiện tự nhiên - môi trường, dân sinh đến hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường.

Chính vì vậy, năm 2013, Quốc hội khóa XIII đã có Nghị quyết số 62/2013/QH13 đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương liên quan thực hiện rà soát toàn diện về công tác quản lý vận hành thủy điện. Và qua 3 năm thực hiện rà soát 1.237 thủy điện lớn, nhỏ, Bộ Công Thương đã loại 684 dự án thủy điện ra khỏi quy hoạch, trong đó có 8 dự án bậc thang, 463 dự án thủy điện nhỏ và 213 dự án không đưa vào diện xem xét quy hoạch.

Năm 2016, Bộ Công Thương cũng đã có văn bản gửi UBND 5 tỉnh Tây Nguyên (Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng) và các tỉnh vùng phụ cận gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Bình Phước tiếp tục rà soát, đánh giá chính xác về thủy điện bao gồm cả các dự án đang vận hành, đầu tư xây dựng hoặc nghiên cứu đầu tư và chưa nghiên cứu đầu tư. Kiên quyết không đưa vào quy hoạch các dự án chiếm đất quá nhiều, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, hiệu quả kinh tế thấp. Đối với các thủy điện đang thi công xây dựng, đã hoàn thành và đi vào vận hành, nếu không thực hiện đầy đủ các cam kết theo quy định phải dừng triển khai hoặc thu hồi giấy phép hoạt động điện lực.

Đâu là giải pháp?

Như đã đề cập ở trên, thủy điện vẫn là nguồn tài nguyên năng lượng sạch, tái tạo, suất đầu tư và giá thành sản xuất rẻ, nhất là trong bối cảnh thiếu hụt nguồn năng lượng, nhiệt điện than tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường… Vấn đề là cần tìm ra giải pháp quản lý thủy điện, hạn chế tồn tại, giảm thiểu tối đa những rủi ro cho nền kinh tế - xã hội. Điều này cũng được Giáo sư, Viện sĩ Trần Đình Long - Phó chủ tịch Hội Điện lực Việt Nam khẳng định khi đưa quan điểm: Thủy điện vẫn là nguồn tài nguyên năng lượng sạch, tái tạo, suất đầu tư và giá thành sản xuất rẻ, nhất là trong bối cảnh thiếu hụt nguồn năng lượng, nhiệt điện than tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, suất đầu tư cho năng lượng tái tạo như mặt trời/gió còn cao; áp lực từ ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải CO2... thì thủy điện vẫn đang chứng minh được vai trò hữu ích nếu quản lý tốt.

Liên quan đến công tác quản lý thủy điện, nhiều chuyên gia cho rằng, trên cơ sở định hướng của Bộ Công Thương, các địa phương cần xây dựng và đẩy mạnh thực thi các giải pháp với những mục tiêu cụ thể, có chế tài xử lý nghiêm minh những trường hợp để xảy ra sai phạm.

Trong vấn đề quy hoạch, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi cho rằng, đã đến lúc không nên giao cho địa phương chủ trì quy hoạch rồi cấp phép cho thủy điện nhỏ, vì thủy điện không chỉ là thủy lợi, nó liên quan đến kết cấu đập, thiết kế, thi công, môi trường... nên cần có chuyên môn sâu. Bên cạnh đó, không nên làm những thủy điện công suất nhỏ hơn 1,5MW và những dự án thủy điện mất nhiều đất, ảnh hưởng đến môi trường xã hội, dự án nằm sâu trong rừng vì hiệu quả không cao, lại tiềm ẩn nhiều nguy cơ.

Tiếp tục chú trọng công tác quản lý an toàn đập, trong đó đánh giá lại chất lượng các công trình đập thủy điện, khắc phục những thiếu sót hiện hữu; tăng cường giám sát các chủ đập thực hiện quy trình vận hành liên hồ chứa cả mùa lũ và mùa khô, bảo đảm an toàn cho hạ du. Trong mùa lũ, các hồ cần xả nước trước khi lũ về, trước khi xả phải thông báo đúng thời gian quy định cho chính quyền và người dân vùng hạ du biết... Trong mùa cạn, buộc các hồ duy trì thời gian xả liên tục với lưu lượng xả nhất định. Đơn cử như việc điều chỉnh quy trình vận hành liên hồ trên hệ thống sông Ba và sông Đồng Nai mới đây.

Ngoài ra, cần đầu tư, tăng cường cho công tác quan trắc, dự báo thời tiết phục vụ quy trình vận hành hồ/liên hồ; xây dựng bản đồ ngập lụt cũng như hệ thống cảnh báo, thông tin cơ sở để người dân dễ tiếp cận.

Đại diện một số địa phương cũng kiến nghị, cần nghiên cứu đầu tư xây dựng thêm các hồ chứa thủy lợi dung tích lớn dọc các lưu vực sông sau đập thủy điện để có thể tận dụng nguồn nước, trữ nước phục vụ nông nghiệp, chăn nuôi trong mùa hạn, góp phần giảm lũ trong mùa mưa.

Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức của người dân trong phòng tránh thiên tai; bảo vệ rừng, tránh tình trạng chặt phá rừng đầu nguồn, khai thác nước ngầm; sử dụng hiệu quả nguồn quỹ chăm sóc và bảo vệ rừng...

Nguyễn Sơn