Thuế thu nhập cá nhân - cần điều chỉnh như thế nào?

18:00 | 04/10/2012

928 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Hiện nay, Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập cá nhân với tinh thần mới là việc rút gọn biểu thuế từ 7 bậc (5-35%) xuống còn 6 bậc (5-30%). Điều này giúp giảm bớt quá nhiều cung bậc trong áp thuế, dễ gây tình trạng lách luật, thất thu thuế hoặc những tiêu cực trong công tác hành chính thuế...

Dự thảo dự kiến sửa đổi nâng mức giảm trừ gia cảnh cho cá nhân người nộp thuế từ 4 triệu đồng/tháng lên 6 triệu đồng/tháng; nâng mức giảm trừ cho người phụ thuộc từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 2,4 triệu đồng/tháng với giải trình các mức này được cân nhắc theo 4 căn cứ: Tốc độ tăng trưởng GDP, chỉ số CPI, đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2013-2020 và kết quả điều tra xã hội học của Tổng cục Thống kê về thu nhập và mức sống dân cư năm 2010, cũng như tham khảo kinh nghiệm cải cách thuế thu nhập cá nhân (TNCN) của một số nước trên thế giới.

Ban soạn thảo dự thảo khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng, các mức điều chỉnh mới này đã được lựa chọn ở mức tối thiểu, sát với tính toán theo tốc độ tăng GDP đến năm 2014 và chắc chắn sẽ “không gây khó khăn cho đời sống của người nộp thuế”…

Người lao động sẽ được giảm trừ gia cảnh đến 9 triệu đồng/tháng trong việc tính thuế thu nhập cá nhân (ảnh: Mạnh Thắng)

Tuy nhiên, sự khẳng định quá chắc chắn này dường như chỉ dựa trên quá nhiều sự giả định không chắc chắn khác, đó là:

Thứ nhất, coi mức khởi điểm 4 triệu đồng và 1,6 triệu đồng trước đây là phù hợp, trong khi thực tế ngay từ khi xây dựng đã cho thấy các con số đó là hết sức phi lý trong bối cảnh lạm phát cao và mức sống thực tế của Việt Nam trong thời điểm đó.

Thứ hai, việc xây dựng các chỉ số này chỉ tính đến năm 2014, thế còn sau đó thì không tính đến, nghĩa là đã giả định sự lạc hậu ngay sau năm 2014 của những mức tính toán trong Dự thảo mới nhất này.

Thứ ba, quan trọng hơn, đó là sự giả định CPI trong thời gian tới sẽ dưới 2 con số. Đó là mục tiêu hướng tới trong quản lý nhà nước, chứ không phải thực tế. Còn nhớ, mới năm 2011, Chính phủ đã đặt ra kế hoạch phấn đấu CPI cho năm đó chỉ là 7,5%, những thực tế sau 3 lần điều chỉnh, mức CPI “chốt lại” theo Tổng cục Thống kê vẫn là trên 18,5%.

Thứ tư, mục tiêu an sinh xã hội như là trọng tâm chính sách của Chính phủ trong những năm tới sẽ bị coi nhẹ vì dự thảo mới này đưa ra mức khởi điểm tính thuế và giảm trừ gia cảnh kiểu “phú quý giật lùi”. Cụ thể, mức giảm trừ gia cảnh cũ 4 triệu đồng/tháng đang cao gấp 4,8 lần mức lương tối thiểu (830.000 đồng/tháng), trong khi đó mức giảm trừ gia cảnh mới 6 triệu đồng/tháng dự kiến áp dụng cho năm 2014 chỉ cao gấp 3,6 lần mức lương tối thiểu dự kiến. Nếu so sánh với mức lương tối thiểu năm 2009, thời điểm Luật Thuế TNCN có hiệu lực thi hành thì mức giảm còn lớn hơn nữa. Bởi, năm 2009, mức giảm trừ gia cảnh 4 triệu đồng/tháng, cao gấp 6,15 lần mức lương tối thiểu là 650.000 đồng/tháng. Chưa kể, mức giảm trừ 6 triệu đồng/tháng nếu được thông qua sẽ không chỉ áp dụng cho riêng một năm 2014, mà có thể kéo dài trong các năm tiếp sau đó, tức là người nghèo sẽ càng khó khăn hơn cùng với tăng trưởng, lạm phát và nhất là sau điều chỉnh thuế TNCN.

Thứ năm, sẽ bất cập khi đưa ra giải trình rằng, “mức giảm trừ 6 triệu đồng/tháng tương đương 1,7 lần mức GDP bình quân đầu người năm 2014 (cao nhất so với các nước trong khu vực có điều kiện tương đồng và khá hơn nước ta, như Malaysia là 0,312 lần; Thái Lan 0,526; Indonesia 0,527 và Trung Quốc 1,23).

Ngoài ra, thì mức thu nhập tính thuế từng bậc cũng cần được nâng tương ứng.

Nếu xét theo đà và áp lực lạm phát còn khá cao trong thời gian tới, nhất là về giá lương thực, thực phẩm và y tế, cũng như xăng dầu, điện, nước... thì chắc chắn “gói thu nhập tối thiểu” dành cho 1 gia đình trung bình ở đô thị nước ta này còn tiếp tục gia tăng với tốc độ chóng mặt.

Hơn nữa, việc Luật Thuế TNCN “chốt” rõ mức khởi điểm tính thuế cụ thể bằng đơn vị VND vừa thấp, dễ lạc hậu, lại vừa cứng gây khó cho mỗi lần điều chỉnh trước các biến động tiền lương trên thực tế.

Với tinh thần đó, nên điều chỉnh thuế TNCN trong thời gian tới theo hướng:

Một là, nâng mức thu nhập khởi điểm tính thuế TNCN cao hơn mức hiện nay và được tính theo số lần mức lương tối thiểu. Cụ thể, Luật Thuế TNCN sửa đổi cần khẳng định chỉ có những người thu nhập gấp 9-10 lần lương tối thiểu hiện hành mới phải nộp thuế với 5 mức lũy tiến từ 10-30%.

Hai là, nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc theo yêu cầu mức sống và mức lạm phát hiện hành. Mức giảm trừ gia cảnh cho nguời phụ thuộc cũng cần được nâng lên và được tính theo mức lương tối thiểu, tuy nhiên ở mức thấp hơn người nộp thuế.

Cụ thể, nên tính mức giảm trừ gia cảnh bằng 3-4 lần mức lương tối thiểu, tức khoảng trên 3 triệu đồng, điều này không chỉ bảo đảm tăng an sinh xã hội, vừa thuận lợi và đồng nhất với cách tính thuế TNCN của người nộp thuế như điều chỉnh mới nêu trên.

Ba là, điều chỉnh về đối tượng, công tác kê khai nộp thuế, quyết toán thuế TNCN. Dự thảo Luật Thuế TNCN điều chỉnh cần có thêm các quy định mới nhằm mở rộng đối tượng và bao quát hết các nguồn và khoản “thu nhập mềm” để chống thất thu ngân sách Nhà nước đối với các khoản thu của quan chức, nghệ sĩ và doanh nhân, kể cả những hoạt động đầu cơ và buôn lậu khác...

Việc tự động khấu trừ tại nguồn 10% tất cả các khoản thu nhập trên 1.000.000 đồng/lượt bất kể người thụ hưởng đương chức hay nghỉ hưu đã tạo nhiều bức xúc và thiệt thòi cho người lao động do sự áp dụng không giống nhau giữa các đơn vị và nhất là do thủ tục hoàn thuế cho các khoản khấu trừ bắt buộc trên là không rõ ràng và không thuận lợi cho người chịu thuế.

Về tổng thể, cần có quy định cụ thể hóa các cách tính và thông báo rộng rãi cho xã hội biết, sao cho các thủ tục thu và hoàn thuế TNCN ngày càng trở nên chính xác, dễ làm và dễ kiểm tra nhất, kích thích tính tự giác và tôn trong quyền lợi của người lao động, do đó nâng cao hiệu quả toàn diện của công tác thuế...

TS Nguyễn Minh Phong

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,500 ▲1300K 120,500 ▲1300K
AVPL/SJC HCM 118,500 ▲1300K 120,500 ▲1300K
AVPL/SJC ĐN 118,500 ▲1300K 120,500 ▲1300K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,020 ▲50K 11,300 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 11,010 ▲50K 11,290 ▲50K
Cập nhật: 13/05/2025 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
TPHCM - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Hà Nội - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Hà Nội - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Đà Nẵng - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Đà Nẵng - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Miền Tây - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Miền Tây - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 ▲500K 115.300 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 ▲500K 115.190 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 ▲500K 114.480 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 ▲500K 114.250 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 ▲380K 86.630 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 ▲290K 67.600 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 ▲210K 48.120 ▲210K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.220 ▲460K 105.720 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.980 ▲300K 70.480 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.600 ▲330K 75.100 ▲330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.050 ▲340K 78.550 ▲340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.890 ▲190K 43.390 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.700 ▲170K 38.200 ▲170K
Cập nhật: 13/05/2025 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,090 ▲50K 11,540 ▲50K
Trang sức 99.9 11,080 ▲50K 11,530 ▲50K
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Miếng SJC Nghệ An 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Miếng SJC Hà Nội 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Cập nhật: 13/05/2025 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16097 16363 16940
CAD 18021 18296 18914
CHF 30241 30616 31272
CNY 0 3358 3600
EUR 28207 28473 29502
GBP 33488 33876 34812
HKD 0 3198 3400
JPY 168 172 179
KRW 0 17 18
NZD 0 14974 15562
SGD 19343 19623 20151
THB 697 760 813
USD (1,2) 25694 0 0
USD (5,10,20) 25733 0 0
USD (50,100) 25761 25795 26137
Cập nhật: 13/05/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,780 25,780 26,140
USD(1-2-5) 24,749 - -
USD(10-20) 24,749 - -
GBP 33,802 33,893 34,798
HKD 3,271 3,281 3,381
CHF 30,316 30,410 31,257
JPY 171.92 172.23 179.91
THB 745.55 754.75 807.05
AUD 16,410 16,469 16,912
CAD 18,338 18,397 18,890
SGD 19,566 19,627 20,248
SEK - 2,604 2,694
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,800 3,931
NOK - 2,448 2,533
CNY - 3,572 3,669
RUB - - -
NZD 14,967 15,106 15,540
KRW 17 17.73 19.04
EUR 28,383 28,406 29,618
TWD 770.48 - 932.2
MYR 5,612.47 - 6,332.73
SAR - 6,805.15 7,162.95
KWD - 82,159 87,359
XAU - - -
Cập nhật: 13/05/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,760 25,770 26,110
EUR 28,231 28,344 29,444
GBP 33,594 33,729 34,696
HKD 3,263 3,276 3,382
CHF 30,184 30,305 31,204
JPY 171.27 171.96 179
AUD 16,251 16,316 16,845
SGD 19,545 19,623 20,158
THB 757 760 793
CAD 18,245 18,318 18,827
NZD 14,989 15,495
KRW 17.49 19.26
Cập nhật: 13/05/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25777 25777 26137
AUD 16283 16383 16946
CAD 18232 18332 18886
CHF 30366 30396 31269
CNY 0 3574 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28475 28575 29348
GBP 33742 33792 34903
HKD 0 3355 0
JPY 171.93 172.93 179.48
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15083 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19513 19643 20374
THB 0 725.9 0
TWD 0 845 0
XAU 11900000 11900000 12100000
XBJ 11000000 11000000 12100000
Cập nhật: 13/05/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,180
USD20 25,780 25,830 26,180
USD1 25,780 25,830 26,180
AUD 16,313 16,463 17,529
EUR 28,512 28,662 29,837
CAD 18,153 18,253 19,571
SGD 19,565 19,715 20,193
JPY 172.37 173.87 178.52
GBP 33,872 34,022 34,801
XAU 11,848,000 0 12,052,000
CNY 0 3,454 0
THB 0 760 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/05/2025 17:00