Sản xuất vải vẫn là “điểm nghẽn” của ngành dệt may

17:10 | 19/01/2019

1,979 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Ông Trương Văn Cẩm – Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam cho biết: "Điểm nghẽn nhất của ngành dệt may Việt Nam là sản xuất được vải. Đây là lĩnh vực ngành đang rất yếu. Ngành cũng đã tìm mọi cách đưa ra giải pháp cho khâu vải nhưng mức độ thành công chưa được như mong muốn". 

Ngành dệt may đang có nhiều ưu thế

Tại Hội thảo “CPTPP với doanh nghiệp Việt: Lợi ích hay thách thức” vừa mới tổ chức sáng nay, bà Bùi Kim Thuỳ, nguyên thành viên Đoàn đàm phán, đại diện USABC tại Việt Nam đánh giá, ngành được hưởng lợi nhiều nhất từ những cam kết được ký kết từ Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đó chính là ngành dệt may. “Nói từ góc độ kỹ thuật, CPTPP là Hiệp định duy nhất Việt Nam tham gia có chương dệt may đứng riêng mà không chung với bất cứ chương nào khác, chưa bao giờ ngành này được ưu ái như vậy. Đặc biệt, trong tổng số các chương, ngành dệt may từ chương 50 đến 63 là các nhóm hàng phổ biến nhất và được đứng riêng, không bị ghép chung với các chương khác” – Bà Thùy nhấn mạnh.

san xuat vai van la diem nghen cua nganh det may
Các diễn giả tham gia thảo luận tại Hội thảo "CPTPP với doanh nghiệp Việt: Lợi ích hay thách thức?"

Theo ông Trương Văn Cẩm, trong gần 30 năm nay, dệt may Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Năm 1990 mới xuất khẩu 52 triệu USD. Đến năm 2002 khi ký hiệp định song phương với Mỹ, đã xuất khẩu khoảng 2,75 tỷ USD, đến 2013 đã tăng lên 21 tỷ USD, và 2018 là 36,1 tỷ USD. Một số năm gần đây, sự phát triển về kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn so với nhập khẩu. Năm 2008 xuất siêu trên 14 tỷ USD.

Nhưng ngành nhập khẩu nhiều, hiện đang nhập khoảng 3 tỷ USD bông, vải trên 12 tỷ USD, nguyên phụ liệu trên 3,6 tỷ USD và chủ yếu nhập từ Trung Quốc, tiếp đến là Hàn Quốc. Từ năm 2015-2017, nhập khẩu nguyên vật liệu bông vải sợi từ thị trường Trung Quốc của doanh nghiệp Việt Nam đã phần nào giảm đi. Tuy vậy, Việt Nam vẫn phải nhập gần 99% bông, 1,3 triệu tấn sơ xợi, 80% vải...

Về may, Việt Nam có thế mạnh nhưng chủ yếu vẫn là hình thức gia công. Về trình độ lao động, 76% lao động trong ngành dệt may là lao động phổ thông.

Bên cạnh những khó khăn, dệt may có những lợi thế nhất định như lực lượng lao động dồi dào, vẫn trong giai đoạn dân số vàng dù hiện tượng già hóa dân số đang xảy ra rất nhanh.

Ngành dệt may thu hút 17,5 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, nhất là khi các hiệp định thương mại tư do đưa vào đàm phán và chuẩn bị kết thúc, làn sóng đầu tư vào Việt Nam tăng mạnh. Trong giai đoạn 2013-2018, nguồn vốn đầu từ vào ngành dệt may chiếm 9,2 tỷ USD. Đây sẽ là lợi thế giúp các doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh.

Đánh giá về những cơ hội của ngành dệt may, ông Cẩm nhấn mạnh: "Cơ hội cho ngành dệt may trong CPTPP là mở rộng thị trường sang Mexico, Peru và Canada. Ngoài ra, những tác động khác nhau thúc đẩy cải cách thể chế, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch hơn... cũng có ảnh hưởng tích cực lên ngành dệt may".

Doanh nghiệp dệt may phải làm gì để tận dụng lợi thế?

Trong đó, quy định xuất xứ từ sợi của CPTTP đã đánh đúng vào điểm nghẽn của ngành. Với lợi thế ưu đãi thuế quan của CPTTP, các đối thủ cạnh tranh sẽ hỗ trợ công nghiệp dệt may của họ. Một số nước xuất khẩu dệt may mới nổi như Campuchia, Myanmar, Lào cũng được hưởng thuế 0% từ EU. Nhiều nước sẽ sử dụng cơ chế phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất nội địa.

san xuat vai van la diem nghen cua nganh det may
Dệt may được nhận định hưởng lợi lớn từ những cam kết của Hiệp định CPTPP

Theo ông Cẩm, cần làm gì để tận dụng lợi thế của CPTTP, đầu tiên, các doanh nghiệp dệt may phải hiểu về CPTTP, nắm kỹ thông tin về ngành dệt may, từ đó, biết chúng ta là ai, có thế mạnh gì và thị trường trong CPTTP có đặc điểm gì để đánh đúng thị trường.

Muốn giải quyết được điểm nghẽn, các doanh nghiệp mạnh phải liên kết với nhau, cần xây dựng chuỗi liên kết doanh nghiệp, nhất là trong nước và đầu tư nước ngoài. Liên quan đến vấn đề lao động, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh vấn đề đào tạo. Hiệp hội Dệt may cũng liên kết với nhiều nước mở lớp đào tạo.

Bên cạnh đó, cần có sự chung tay của nhà nước, địa phương. Nhà nước cần có chính sách phát triển trong 10-15 năm tới để tận dụng hiệp định này. Hiện, một số địa phương quay lại với dệt may, đặc biệt là dệt nhuộm nhưng nhiều dự án của các nhà đầu tư danh tiếng, có đầy đủ yêu cầu thì lại không được cấp phép. Vì vậy, Chính phủ cần quy hoạch các khu công nghiệp, xử lý nước thải để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp.

Mặt khác, ông Cẩm cho biết hiệp hội đã đề xuất lên Chính phủ việc xây dựng những cụm công nghệ tập trung có công nghệ xử lý nước thải. Giải pháp thứ hai là đào tạo nguồn nhân lực, nhà nước hỗ trợ thiết bị dạy học, học phí và học bổng để thu hút học sinh sinh viên vào ngành dệt may.

Nói về thách thức, cơ hội với ngành dệt may, ông Nguyễn Sơn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Bông sợi Việt Nam cho biết, cuối năm ngoái, Viện Chiến lược Phát triển đã tiến hành đánh giá hàng trăm doanh nghiệp, đồng thời tham gia thảo luận để tìm ra những khó khăn đang gặp phải.

Vấn đề lớn nhất của ngành dệt may là sản xuất vải mà mấu chốt là vấn đề in, nhuộm... Tại các nước phát triển như Hàn Quốc, Trung Quốc, doanh nghiệp lớn đều xây dựng chuỗi cung ứng, khu công nghiệp với hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn. Khi tập trung về một khu vực, các doanh nghiệp sẽ dễ dàng xử lý, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chỉ tập trung vào một khâu còn khâu sản xuất vải sẽ được lấy từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các khu vực khác… Việt Nam cần nghiên cứu, ứng dụng mô hình này.

Trước đây, ông cho rằng một phần chính sách phát triển có vấn đề, những mảng cần ưu đãi nhiều lại không có. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa tiếp cận được các doanh nghiệp sản xuất vải lớn trong nước, dẫn đến phải nhập khẩu đến 12,8 tỷ USD vải...

Ông kiến nghị, Chính phủ cần có chính sách để doanh nghiệp tiếp cận đất đai dễ dàng hơn. Nhiều nơi có thể phát triển mô hình này nhưng hiện các tỉnh mới nhận thức có mức độ, 80-90% nói không với dệt nhuộm bởi lo ngại vấn đề ô nhiễm môi trường.

Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể hưởng lợi, câu hỏi đặt ra là làm sao để thu hút doanh nghiệp, trong đó, giải pháp tốt nhất là xây dựng các khu công nghiệp tập trung. Hiện, vấn đề thu hút nguồn nhân lực vẫn còn hạn chế bởi các trường đại học ít đào tạo ngành này, các ngành cũng chưa có chính sách để thu hút sinh viên. Ông nêu ví dụ về một nhà máy dệt ở khu công nghiệp Bảo Minh (Nam Định) mới khánh thành có công suất lên đến 3 triệu mét một năm. Do không có nguồn nhân lực, công ty này phải thuê nhân lực từ nước ngoài nhưng vẫn không đạt yêu cầu. Vì vậy, Việt Nam nên hợp tác với các nước có thế mạnh để hỗ trợ nhau đào tạo nhân lực. Thuế VAT cũng là vấn đề nhức nhối của nhiều doanh nghiệp. Theo ông Sơn, các doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam được miễn thuế nhưng các công ty trong nước cung ứng cho nhau lại mất thuế VAT. Vấn đề này cần được nghiên cứu và làm rõ.

san xuat vai van la diem nghen cua nganh det mayDệt may Việt Nam nay đã khác
san xuat vai van la diem nghen cua nganh det mayCPTPP : Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam
san xuat vai van la diem nghen cua nganh det mayNgành công nghiệp dệt may Việt Nam vào top 5 thế giới

Thanh Nhiên

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 74,400 75,600
Nguyên liệu 999 - HN 74,300 75,500
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 19/04/2024 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 82.100 84.100
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 82.100 84.100
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 82.100 84.100
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,435 7,650
Trang sức 99.9 7,425 7,640
NL 99.99 7,430
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,410
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,500 7,680
Miếng SJC Thái Bình 8,210 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,210 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,210 8,400
Cập nhật: 19/04/2024 02:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,100 84,100
SJC 5c 82,100 84,120
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,100 84,130
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 76,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 76,700
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,900
Nữ Trang 99% 73,149 75,149
Nữ Trang 68% 49,267 51,767
Nữ Trang 41.7% 29,303 31,803
Cập nhật: 19/04/2024 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,802.74 15,962.37 16,474.59
CAD 17,830.93 18,011.04 18,589.00
CHF 27,037.08 27,310.18 28,186.55
CNY 3,419.83 3,454.37 3,565.76
DKK - 3,534.07 3,669.44
EUR 26,168.83 26,433.16 27,603.92
GBP 30,667.37 30,977.14 31,971.18
HKD 3,144.63 3,176.39 3,278.32
INR - 301.14 313.19
JPY 158.53 160.13 167.79
KRW 15.77 17.53 19.12
KWD - 81,790.33 85,060.87
MYR - 5,219.21 5,333.08
NOK - 2,258.10 2,353.99
RUB - 254.56 281.80
SAR - 6,718.10 6,986.74
SEK - 2,263.43 2,359.55
SGD 18,067.70 18,250.20 18,835.84
THB 606.11 673.46 699.26
USD 25,100.00 25,130.00 25,440.00
Cập nhật: 19/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,005 16,025 16,625
CAD 18,150 18,160 18,860
CHF 27,355 27,375 28,325
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,537 3,707
EUR #26,205 26,415 27,705
GBP 31,061 31,071 32,241
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.21 160.36 169.91
KRW 16.21 16.41 20.21
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,220 2,340
NZD 14,746 14,756 15,336
SEK - 2,245 2,380
SGD 18,101 18,111 18,911
THB 637.9 677.9 705.9
USD #25,145 25,145 25,440
Cập nhật: 19/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,325.00 26,431.00 27,607.00
GBP 30,757.00 30,943.00 31,897.00
HKD 3,164.00 3,177.00 3,280.00
CHF 27,183.00 27,292.00 28,129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15,911.00 15,975.00 16,463.00
SGD 18,186.00 18,259.00 18,792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17,956.00 18,028.00 18,551.00
NZD 14,666.00 15,158.00
KRW 17.43 19.02
Cập nhật: 19/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25225 25275 25442
AUD 16138 16188 16591
CAD 18211 18261 18666
CHF 27736 27786 28199
CNY 0 3479.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26808 26858 27368
GBP 31508 31558 32018
HKD 0 3115 0
JPY 162.51 163.01 167.54
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0372 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14819 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18515 18515 18872
THB 0 651.3 0
TWD 0 777 0
XAU 8220000 8220000 8390000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 02:00