Nợ xấu 483.200 tỷ đồng và con số cụ thể của từng ngân hàng qua 6 tháng

14:21 | 23/07/2021

846 lượt xem
|
Nợ xấu, nợ tiềm ẩn của các tổ chức tín dụng là 483.200 tỷ đồng, theo số liệu báo cáo tại phiên họp Quốc hội. Nợ xấu từng ngân hàng 6 tháng qua cũng đã lộ diện qua báo cáo tài chính.

483.200 tỷ đồng nợ xấu, nợ tiềm ẩn

Tại phiên họp Quốc hội ngày 22/7, ông Vũ Hồng Thanh - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội - cho biết, các khoản nợ xấu tiềm ẩn còn ở mức cao. Tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng là 483.200 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ 4,71%, nợ xấu nội bảng tiếp tục tăng (cuối tháng 4 là 1,78%).

Nợ xấu nội bảng tiếp tục tăng (cuối tháng 4 là 1,78%). Nợ xấu tín dụng các dự án BOT, BT giao thông giảm so với cuối năm 2020 nhưng chưa phản ánh chất lượng nợ do nợ nhóm 2 là 5.912 tỷ đồng, chiếm 5,48%. Hiện 54 dự án BOT, BT có doanh thu từ phí không đạt như phương án tài chính.

Còn theo báo cáo tài chính mà các ngân hàng vừa công bố, số liệu nợ xấu cũng đã được thể hiện rõ qua các con số. Một điều đáng mừng là tính đến cuối quý II, số lượng ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ giảm nhiều gần gấp đôi so với số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng lên.

Nợ xấu qua từng con số báo cáo tài chính ngân hàng

Nợ xấu 483.200 tỷ đồng và con số cụ thể của từng ngân hàng qua 6 tháng - 1

Kienlongbank là ngân hàng có số dư nợ xấu giảm mạnh 73% từ 1.883 tỷ đồng cuối năm 2020 về 510 tỷ đồng; trong đó nợ xấu nhóm 3 giảm 14,5%, nợ nhóm 5 giảm mạnh nhất với mức giảm lên tới 75,5%.

Đây là kết quả của việc xử lý các khoản nợ xấu được đảm bảo bởi cổ phiếu STB của Sacombank. Nhờ đó, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng từ mức trên 5% (cuối năm 2020) xuống chỉ còn 1,43% vào cuối quý II năm nay.

Hay tại Techcombank, chất lượng tài sản của Techcombank tiếp tục dẫn đầu ngành với tỷ lệ nợ xấu chỉ ở mức 0,4%, thấp hơn mức 0,9% tại quý II năm 2020 và duy trì ngang với cuối quý I.

Điều đáng nói, tỷ lệ bao phủ nợ xấu tại thời điểm cuối quý II của ngân hàng là 259%, tăng so với mức 171% tại thời điểm cuối năm 2020 và 109% tại thời điểm 30/6/2020.

Nợ xấu 483.200 tỷ đồng và con số cụ thể của từng ngân hàng qua 6 tháng - 2

6 tháng đầu năm, cho vay khách hàng tăng mạnh nhưng số dư nợ xấu của MB lại giảm 22% về 2.531 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay khách hàng của ngân hàng này giảm mạnh từ 1,09% về 0,76%.

Tương tự, tỷ lệ nợ xấu của OCB cũng giảm từ 1,69% xuống còn 1,53%; VIB giảm về mức 1,3%; tỷ lệ này tại SeaBank và Saigonbank lần lượt giảm từ 1,86% xuống còn 1,76% và 1,44% xuống 1,43% cuối quý II.

Con số nợ xấu tại một số ngân hàng nếu xét về giá trị tuyệt đối có xu hướng tăng nhưng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ vẫn không nằm ngoài xu hướng giảm. Ví dụ như tại NCB, số dư nợ xấu tăng nhẹ 1,2% lên 616 tỷ đồng, còn tỷ lệ nợ xấu giảm từ 1,51% cuối năm trước về 1,48%. NCB không công bố chi tiết nợ xấu đã bán cho VAMC song số dư chứng khoán nợ do các tổ chức kinh tế trong nước phát hành (phần lớn là trái phiếu VAMC và DATC) vẫn duy trì ở mức 5.886 tỷ đồng.

Ngược lại, nhóm ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng được thống kê hiện có gần 10 ngân hàng, bao gồm Bac A Bank, VPBank, ABBank, PGBank, VietinBank...

Nợ xấu 483.200 tỷ đồng và con số cụ thể của từng ngân hàng qua 6 tháng - 3

Trong đó, tổng nợ xấu tính đến cuối quý II của Bac A Bank tăng nhẹ 2% so với đầu năm, lên mức hơn 641 tỷ đồng. Nợ dưới tiêu chuẩn tăng mạnh 79%, dù chỉ chiếm hơn 41 tỷ đồng và chiếm tỷ trọng nhiều vẫn là nợ có khả năng mất vốn với hơn 310 tỷ đồng nợ xấu. Kéo theo đó, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 0,79% lên 0,82%.

PGBank có nợ xấu nội bảng của ngân hàng tăng 12,2% lên 703 tỷ đồng do nhóm nợ nghi ngờ tăng mạnh 58,6% so với cuối năm 2020. Kéo theo đó, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng cũng tăng từ 2,44% lên 2,67%.

Sau hai quý đầu năm, dư nợ xấu của VPBank tăng 8,8% lên 10.801 tỷ đồng, chủ yếu do tăng nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn). Qua đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đã tăng từ 3,41% lên 3,47%. Tuy nhiên, đây là nợ xấu bao gồm của cả VPBank và FE Credit. Nếu tính riêng ngân hàng mẹ, tỷ lệ nợ xấu chỉ ở mức 2,1%, thấp hơn so với mức 2,52% cuối năm ngoái.

Dự báo gia tăng nợ xấu do Covid-19

Ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng - cho hay, ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 tới ngành ngân hàng là rất lớn đặc biệt là nguy cơ tiềm ẩn trong tương lai.

"Theo tôi biết, số nợ cơ cấu theo Thông tư 01/2020 và Thông tư 03/2021 hiện nay là 347 nghìn tỷ đồng, nhưng con số này khả năng sẽ còn lớn hơn. Trước diễn biến phức tạp của đại dịch, thời gian tới, sức khỏe của doanh nghiệp và nền kinh tế là hết sức khó khăn. Không chỉ riêng lĩnh vực giao thông vận tải, du lịch bị ảnh hưởng mà rất nhiều lĩnh vực khác cũng chịu tác động. Kể cả những đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả trước đây, dù có đơn hàng, có hợp đồng vẫn phải ngừng sản xuất kinh doanh, đóng cửa do công nhân bị nhiễm bệnh.

Nền kinh tế và doanh nghiệp bị ảnh hưởng chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến ngân hàng. Doanh nghiệp sẽ không có tiền để trả nợ vay ngân hàng, trong khi ngân hàng phải tiếp tục trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư 03/2021 trong giai đoạn 3 năm", ông Hùng nói.

Theo dự báo của Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng, chắc chắn nợ xấu của ngân hàng sẽ phát sinh và gia tăng trong thời gian tới. "Cần phải nhìn nhận, nợ xấu giai đoạn này có nhiều điểm khác so với năm 2008, nguyên nhân gây ra không phải do yếu tố chủ quan mà là khách quan bởi dịch bệnh toàn cầu ảnh hưởng tới không chỉ Việt Nam mà cả ở toàn thế giới. Do đó, hậu quả của đại dịch chắc chắn sẽ rất nặng nề", Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng nhấn mạnh.

Theo Dân trí

"Hộp đen" của lợi nhuận ngân hàng
Ngân hàng rao bán nợ vay tiêu dùng, có món chỉ vài triệu đồngNgân hàng rao bán nợ vay tiêu dùng, có món chỉ vài triệu đồng
Doanh nghiệp và nỗi ám ảnh Doanh nghiệp và nỗi ám ảnh "danh sách đen"
Tại VAMC còn tồn hơn 91.000 tỷ đồng nợ xấuTại VAMC còn tồn hơn 91.000 tỷ đồng nợ xấu
Nợ xấu ngân hàng 2021: Đến thời điểm chuyển nhóm nợ để đánh giá thực chất hơnNợ xấu ngân hàng 2021: Đến thời điểm chuyển nhóm nợ để đánh giá thực chất hơn

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 151,700
Hà Nội - PNJ 148,700 151,700
Đà Nẵng - PNJ 148,700 151,700
Miền Tây - PNJ 148,700 151,700
Tây Nguyên - PNJ 148,700 151,700
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 151,700
Cập nhật: 26/11/2025 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 15,290
Miếng SJC Nghệ An 15,090 15,290
Miếng SJC Thái Bình 15,090 15,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 15,250
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
Trang sức 99.9 14,540 15,140
Trang sức 99.99 14,550 15,150
Cập nhật: 26/11/2025 04:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 15,292
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 15,293
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,505
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,506
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,465 1,495
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,352 14,802
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,786 112,286
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,432 10,182
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,854 91,354
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,817 87,317
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,998 62,498
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cập nhật: 26/11/2025 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16499 16767 17345
CAD 18147 18423 19038
CHF 31918 32299 32941
CNY 0 3470 3830
EUR 29777 30049 31077
GBP 33826 34215 35141
HKD 0 3260 3462
JPY 161 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14471 15058
SGD 19703 19984 20508
THB 731 794 848
USD (1,2) 26103 0 0
USD (5,10,20) 26145 0 0
USD (50,100) 26173 26193 26403
Cập nhật: 26/11/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,014 30,038 31,175
JPY 165.61 165.91 172.86
GBP 34,215 34,308 35,106
AUD 16,780 16,841 17,286
CAD 18,385 18,444 18,966
CHF 32,308 32,408 33,078
SGD 19,858 19,920 20,539
CNY - 3,671 3,768
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 780.33 789.97 841.1
NZD 14,485 14,619 14,967
SEK - 2,718 2,797
DKK - 4,014 4,130
NOK - 2,537 2,611
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,970.93 - 6,697.25
TWD 759.77 - 914.16
SAR - 6,932.04 7,256.31
KWD - 83,806 88,590
Cập nhật: 26/11/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 26/11/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26079 26079 26403
AUD 16682 16782 17705
CAD 18331 18431 19444
CHF 32176 32206 33792
CNY 0 3685.7 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29965 29995 31718
GBP 34129 34179 35940
HKD 0 3390 0
JPY 165.27 165.77 176.29
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14583 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19867 19997 20725
THB 0 760.7 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 26/11/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,403
USD20 26,198 26,248 26,403
USD1 26,198 26,248 26,403
AUD 16,726 16,826 17,935
EUR 30,113 30,113 31,227
CAD 18,278 18,378 19,689
SGD 19,930 20,080 20,646
JPY 165.69 167.19 171.76
GBP 34,203 34,353 35,126
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,567 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 04:00