NFSC: Cầu nội địa suy giảm tạo lực cản tăng trưởng

07:00 | 05/08/2013

506 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) – Trong bản đánh giá kinh tế Việt Nam tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2013 do Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (NFSC) công bố ngày 31/7 đánh giá, thời điểm cuối quí II môi trường kinh tế vĩ mô đã xuất hiện những tín hiệu đáng phấn khởi.

Bản đánh giá chỉ ra sự ổn định cần thiết của môi trường kinh tế vĩ mô – yếu tố tiên quyết để theo đuổi các mục tiêu năm 2013 - kể từ khi Chính phủ đưa ra một loạt gói giải pháp cuối năm 2012. Ngoài lạm phát đã được kiểm soát ở mức thấp (CPI tháng 7 tăng hơn so với tháng trước (tăng 0,27% so với tháng 6) và tăng 7,29% so với tháng 7/2012, bình quân 7 tháng tăng 6,81% so với cùng kỳ), niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam tiếp tục được cải thiện. Biểu hiện là mức độ rủi ro tín dụng quốc gia được đo lường bởi hệ số CDS đã giảm mạnh từ mức trên 300 điểm của cùng kỳ năm ngoái xuống quanh mức 220 điểm ngày 23/7.

Sản xuất bị ảnh hưởng theo chiều hướng chững lại

Theo tính toán của NFSC, nếu chưa tính đến việc điều chỉnh giá do nhà nước quản lý và tác động chính sách, theo dự báo của NFSC trong các báo cáo trước, lạm phát năm nay chỉ ở mức 5. Trong khi đó, dư địa để thực hiện mục tiêu lạm phát thấp hơn năm ngoái (6.81%) còn khoảng trên 4% cho những tháng cuối năm, tương ứng với mức 0,76%/tháng.

Thị trường tài chính tiền tệ tiếp tục được cải thiện, mức độ rủi ro giảm bớt tạo yếu tố ổn định hơn cho kinh tế vĩ mô. Lãi suất ngân hàng giảm nhiều so với cuối năm 2012; cùng với đó, thanh khoản của hệ thống được cải thiện tốt hơn nhiều so với giai đoạn trước (hệ số LRD – cho vay/tiền gửi tiếp tục giảm); tỷ giá tuy có biến động trong một thời gian ngắn sau khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá chính thức nhưng chủ yếu là do yếu tố tâm lý.

Tăng trưởng kinh tế có một số dấu hiệu chuyển biến nhưng vẫn ở mức thấp và đối mặt nhiều khó khăn để có thể đạt mục tiêu cả năm là 5.5%. Sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tích cực, chỉ số IIP 7 tháng đầu năm tăng 5,2%, cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái (4,8%). Đặc biệt, khu vực công nghiệp chế biến chế tạo có mức tăng trưởng khá, đạt mức 5,8% so với 4,3% cùng kỳ. Cùng với đó, chỉ số hàng tồn kho so với cùng kì năm trước đã giảm đáng kể xuống mức 8,8% (tại thời điểm 1/7/2013) so với mức 21,5% tại thời điểm đầu năm 2013.

Sau động thái điều chỉnh tỷ giá chính thức 1% của NHNN vào ngày 28/6, thị trường ngoại hối vẫn có những biến động khá mạnh. Tuy nhiên, đây chỉ là những “dư chấn” tâm lý của đợt điều chỉnh trên. Bên cạnh đó, cũng có một số nguyên nhân khác gây tác động nhẹ đến thị trường như: Nhu cầu cân bằng, điều chỉnh trạng thái ngoại hối của các NH TMCP và các doanh nghiệp; Các nhà đầu tư nước ngoài điều chỉnh danh mục đầu tư và chốt lời (tính từ tháng 6 đến nửa đầu tháng 7, nhà đầu tư nước ngoài đã rút xấp xỉ khoảng 450 triệu USD trên thị trường trái phiếu cũng như khoảng gần 100 triệu USD trên thị trường cổ phiếu). Tuy nhiên, theo nhận định của NFSC, sự biến động này chỉ mang tính nhất thời, cung - cầu ngoại hối trên thị trường trong những tháng cuối năm vẫn ổn định, dự trữ ngoại tệ tiếp tục tăng khá.

Bên cạnh đó, tình hình phát triển doanh nghiệp đã bước đầu có những cải thiện. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đã bắt đầu tăng so với cùng kỳ những tháng gần đây, số lượng doanh nghiệp tạm dừng hoạt động quay trở lại hoạt động cũng tăng dần qua từng tháng.

Dù vậy, mục tiêu tăng trưởng cả năm 5.5% vẫn là thách thức lớn đối với nền kinh tế. Với kết quả GDP 6 tháng đầu năm tăng ở mức 4,9%, tương đương với cùng kỳ năm 2012 (4,93%), tăng trưởng GDP của Việt Nam đang ở mức thấp so với nhiều năm trở lại đây khiến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng cả năm ở mức 5,5% sẽ gặp nhiều khó khăn. Theo đánh giá của NFSC, nguyên nhân chính khiến tổng cầu suy yếu là do tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt thấp. Theo đó, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 6 tháng đầu năm 2013 chỉ đạt 29,6% GDP, thấp hơn khá nhiều so với cùng kỳ năm 2012 (34,5% GDP). NFSC cho rằng, thời gian còn lại trong năm, Chính phủ cần tập trung chỉ đạo điều hành để đảm bảo mục tiêu tổng vốn đầu tư xã hội tăng khoảng 12-14% so với 2012. 

Theo một đại diện của NFSC: Công tác điều hành chính sách trong giai đoạn tới cần tiếp tục kiên định với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô nhằm củng cố niềm tin của thị trường và các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, trong những tháng cuối năm, cần ưu tiên hỗ trợ sản xuất và tăng trưởng một cách hợp lý, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong nước thông qua việc đẩy nhanh các gói chính sách hỗ trợ một cách kịp thời, đồng bộ và đủ liều lượng,

"Chúng ta cần xét trên nền tảng kinh tế vĩ mô, lạm phát được kiểm soát tốt và còn dư địa nhất định cho việc tiếp tục điều chỉnh giá (giá điện, than, dịch vụ công) theo nguyên tắc thị trường và áp dụng tỷ giá linh hoạt. Tuy nhiên, khung thời gian từ nay cho đến cuối năm không còn nhiều nên cần phải có lộ trình điều chỉnh cụ thể, liều lượng thích hợp và thời điểm cũng cần phải tính toán hợp lý để tránh dồn dập, gây ảnh hưởng tâm lý cho thị trường" - vị này chia sẻ quan điểm.

T.L

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 111,000 ▼6000K 115,000 ▼5000K
AVPL/SJC HCM 111,000 ▼6000K 115,000 ▼5000K
AVPL/SJC ĐN 111,000 ▼6000K 115,000 ▼5000K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 ▼550K 11,260 ▼500K
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 ▼550K 11,250 ▼500K
Cập nhật: 19/04/2025 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
TPHCM - SJC 111.000 ▼6000K 115.000 ▼5000K
Hà Nội - PNJ 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Hà Nội - SJC 111.000 ▼6000K 115.000 ▼5000K
Đà Nẵng - PNJ 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Đà Nẵng - SJC 111.000 ▼6000K 115.000 ▼5000K
Miền Tây - PNJ 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Miền Tây - SJC 111.000 ▼6000K 115.000 ▼5000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 111.000 ▼6000K 115.000 ▼5000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500 ▼4500K
Giá vàng nữ trang - SJC 111.000 ▼6000K 115.000 ▼5000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500 ▼4500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 ▼4000K 112.000 ▼4000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 ▼3990K 111.890 ▼3990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 ▼3970K 111.200 ▼3970K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 ▼3960K 110.980 ▼3960K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 ▼3000K 84.150 ▼3000K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 ▼2340K 65.670 ▼2340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 ▼1670K 46.740 ▼1670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 ▼3670K 102.690 ▼3670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 ▼2440K 68.470 ▼2440K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 ▼2600K 72.950 ▼2600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 ▼2720K 76.310 ▼2720K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 ▼1500K 42.150 ▼1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 ▼1320K 37.110 ▼1320K
Cập nhật: 19/04/2025 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,970 ▼350K 11,590 ▼250K
Trang sức 99.9 10,960 ▼350K 11,580 ▼250K
NL 99.99 10,970 ▼350K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,970 ▼350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 ▼350K 11,600 ▼250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 ▼350K 11,600 ▼250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 ▼350K 11,600 ▼250K
Miếng SJC Thái Bình 11,300 ▼400K 11,700 ▼300K
Miếng SJC Nghệ An 11,300 ▼400K 11,700 ▼300K
Miếng SJC Hà Nội 11,300 ▼400K 11,700 ▼300K
Cập nhật: 19/04/2025 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 19/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 19/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 19/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 19/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 19/04/2025 12:00