Lọc hóa dầu Bình Sơn từng bước vượt bão kép

08:24 | 22/05/2020

84,453 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trước bối cảnh khó khăn kép từ giá dầu thô giảm mạnh và ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) đã đưa ra hàng loạt giải pháp nhằm đưa Công ty vượt qua thời kỳ khó khăn nhất trong lịch sử. 

Dầu khí toàn cầu lao đao

Dầu khí là ngành công nghiệp bị “tàn phá” bởi cả dịch Covid-19 và việc giá dầu giảm sâu. Vậy nên, hậu quả mà ngành này phải gánh chịu là vô cùng nặng nề.

Chỉ trong 4 tháng kể từ khi dịch bệnh bùng phát, hàng loạt tập đoàn dầu khí đa quốc gia, các công ty lọc dầu lớn trên thế giới đã rơi vào thua lỗ, giảm công suất, giảm hoạt động đầu tư, thậm chí nhiều nhà máy đã phải đóng cửa.

Lọc hóa dầu Bình Sơn từng bước vượt bão kép
BSR đang tận dụng các cơ hội để mua dầu thô theo chuyến (SPOT) trong nước có giá hấp dẫn.

Theo thông tin từ các hãng thông tấn Reuters, Bloomberg và hãng tin Platts, đầu tháng 5, Exxon Mobil Corp - tập đoàn dầu khí hàng đầu Mỹ thông báo lỗ 610 triệu USD trong quý I/2020, do giảm giá hàng tồn kho gần 3 tỷ USD. Con số thảm hại so với mức lợi nhuận 2,35 tỷ USD có được cùng kỳ năm ngoái của tập đoàn này.

ConocoPhillips - một tập đoàn năng lượng khác của Mỹ ghi nhận mức lỗ ròng 1,74 tỷ USD. Trong khi một tập đoàn dầu khí hùng mạnh khác là BP của Anh cũng thông báo lỗ ròng 4,4 tỷ USD. Đây là một tổn thất quả lớn trong lịch sử của ngành dầu khí toàn cầu.

Shell - một tập đoàn dầu khí đa quốc gia của Anh và Hà Lan dự kiến tạm dừng hoạt động nhà máy lọc dầu công suất 110.000 thùng/ngày tại Philippines trong vòng một tháng, do nhu cầu nhiên liệu giảm mạnh và biên lợi nhuận thấp ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.

Nhà máy lọc dầu Phillips 66 của Hoa Kỳ đã báo cáo lỗ ròng 2,50 tỷ USD trong quý I, so với khoản lãi 204 triệu USD so với cùng kỳ năm trước và 736 triệu USD vào quý liền trước. Tập đoàn SK - Hàn Quốc, chủ sở hữu các nhà máy lọc dầu hàng đầu Hàn Quốc đã báo cáo khoản lỗ 1.800 tỷ won, tương đương 1,5 tỷ USD trong quý đầu năm nay.

Trong bối cảnh đó, các nhà máy lọc dầu trong nước cũng bị tổn thất nặng nề. Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn - đơn vị quản lý và vận hành Nhà máy Lọc dầu Dung Quất - vừa ghi nhận quý I lợi nhuận âm 2.332 tỷ đồng, nguyên nhân chính đến từ giảm giá lượng hàng tồn kho quá lớn.

Dung Quất từng bước vượt khó

Dẫu vậy, xem xét trong tương quan với nhiều nhà máy lọc dầu trên thế giới, có thể nhận thấy những nỗ lực đáng ghi nhận của BSR trong ổn định sản xuất kinh doanh, cũng như giảm thiểu những tác hại kép chưa từng có trong lịch sử.

Lọc hóa dầu Bình Sơn từng bước vượt bão kép
BSR luôn linh hoạt điều chỉnh công suất vận hành NMLD Dung Quất theo nhu cầu thị trường.

Tổng Giám đốc BSR Bùi Minh Tiến cho biết, với vai trò quan trọng là doanh nghiệp sản xuất đáp ứng gần 40% nhu cầu xăng dầu cho quốc gia, vừa là công cụ điều tiết ổn định thị trường, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đã từng bước vượt qua khó khăn, đi lên từ khủng hoảng kép. Có nhiều thời điểm Công ty phải đứng trước nguy cơ dừng nhà máy một thời gian. Tuy nhiên, bằng tất cả sự quyết tâm, nỗ lực, BSR vẫn duy trì vận hành nhà máy liên tục, an toàn và cung ứng ra thị trường sản phẩm đạt chất lượng.

Để nhà máy vận hành liên tục, Công ty đã áp dụng nhiều gói giải pháp đồng bộ như giải pháp quản trị, điều hành trong điều kiện thị trường bất bình thường, giải pháp về nguồn nguyên liệu kết hợp kinh doanh sản phẩm, giải pháp về tối ưu chế độ vận hành theo thị trường sản phẩm, giải pháp về quản trị dòng tiền, tiết giảm chi phí…

Một trong các giải pháp nêu trên là linh hoạt điều chỉnh công suất nhà máy theo nhu cầu thị trường, giải phóng hàng tồn kho giá cao càng nhanh càng tốt để có chỗ chứa các lô dầu thô giá thấp. “Chúng tôi sẽ tối đa tiêu thụ dầu thô dài hạn trong nước để tăng liên kết chuỗi lợi ích trong ngành. Ngoài ra, BSR sẽ tìm cơ hội mua theo chuyến (SPOT) dầu thô trong nước có giá hấp dẫn” ông Tiến cho biết.

Giải pháp tiếp theo là bám sát thị trường, tăng cường việc dự báo, phân tích, tối ưu hóa sản phẩm, tìm cơ hội bán sản phẩm trung gian có giá trị cao để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiêu biểu như trong tháng 4/2020, BSR bán cho Huyndai Bank Oil 18.000 m3 LCO (sản phẩm trung gian), giúp mang lại hiệu quả cao hơn khoảng gần 15 tỷ đồng so với xuất bán khối lượng tương ứng dầu DO.

Giải pháp căn cơ tiếp theo để giúp BSR vượt qua giai đoạn khó khăn là tiết giảm triệt để chi phí sản xuất kinh doanh. BSR đã rà soát, tiết giảm khoảng 23,3%, tương ứng 1.450 tỷ đồng so với kế hoạch đã được phê duyệt.

“Để có dòng tiền cho hoạt động, chúng tôi đã hợp tác chặt chẽ với các ngân hàng để vay ngắn hạn với lãi suất ưu đãi. Nhờ đó, cùng với các giải pháp tiết giảm chi phí, dừng giãn các hạng mục đầu tư chưa cần thiết, tích cực trong công tác bán hàng và thu hồi công nợ, đến nay Công ty vẫn đảm bảo dòng tiền cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là việc đảm bảo thanh toán tiền mua dầu thô đúng hạn”, ông Tiến nhấn mạnh.

Với những giải pháp đồng bộ từ quản trị, điều hành, tài chính, sản xuất kinh doanh, Lọc dầu Dung Quất không những duy trì vận hành, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, mà còn gián tiếp hỗ trợ các mỏ dầu ở thềm lục địa Việt Nam không phải dừng hoạt động, các đơn vị làm dịch vụ cho BSR cũng có cơ hội việc làm, duy trì công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động.

Mặc dù khó khăn phía trước vẫn còn nhiều, lãnh đạo BSR kỳ vọng khi dịch bệnh ở Việt Nam đã được kiểm soát, nền kinh tế đang phục hồi, mọi hoạt động của người dân cũng trở lại bình thường và trên thế giới các nước cũng đang tiến hành dỡ bỏ các biện pháp phong tỏa, tập trung khôi phục kinh tế,cộng với sự ấm lên của thị trường dầu mỏ trong tháng 5 và các tháng tiếp theo sẽ giúp Công ty sớm khắc phục được các tổn thất và tận dụng cơ hội khôi phục hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Hải Anh

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 23:00