Kinh tế “ngấm đòn”, Trung Quốc vào thế “lưỡng nan” trước Mỹ

15:33 | 12/01/2019

723 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Thế lưỡng nan của Trung Quốc hiện nay là đang chịu áp lực phải hỗ trợ cho tăng trưởng trong ngắn hạn trong khi vẫn phải thực hiện mục tiêu hạ đòn bẩy và giảm rủi ro cho hệ thống tài chính trong dài hạn. Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp, song số liệu kinh tế của Trung Quốc vẫn khá ảm đạm.

Nền kinh tế đang "ngấm đòn" vì chiến tranh thương mại

Sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đạt được thoả thuận về việc tạm ngừng tăng mức thuế áp đặt lên hàng hóa của nhau trong vòng 90 ngày tại Hội nghị G20 cuối tháng 11/2018 vừa qua, cuộc đàm phán giữa Mỹ và Trung Quốc đã được khởi động trở lại vào đầu tháng 1/2019.

Nhân sự kiện này, các chuyên gia phân tích đến từ BVSC đã đưa ra những nhận định về tình hình kinh tế mới nhất của Mỹ và Trung Quốc cũng như đánh giá khả năng liệu sẽ có một thỏa thuận thương mại giữa hai nước hay không?

kinh te ngam don trung quoc vao the luong nan truoc my
Nền kinh tế của cả Mỹ và Trung Quốc đều đang chịu ảnh hưởng bởi chiến tranh thương mại

Theo BVSC, kinh tế Mỹ đang phát đi những tín hiệu trái chiều giữa khu vực sản xuất và thị trường lao động, khiến TTCK Mỹ tiếp tục có diễn biến trồi sụt, dao động trong biên độ lớn.

Cụ thể, chỉ số ISM Manufacturing (đo lường sức khỏe của khu vực sản xuất) của Mỹ đã giảm mạnh xuống mức 54,1 điểm trong tháng 12/2018 so với mức 59,3 điểm của tháng trước đó, báo hiệu xu hướng quay đầu trong hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất. Tiền lương gia tăng, đồng USD mạnh lên và nhu cầu từ thị trường nước ngoài suy yếu đang dần cho thấy tác động thực vào lĩnh vực sản xuất chế tạo của Mỹ.

Trong khi đó, kinh tế Trung Quốc vẫn đang gặp nhiều khó khăn bất chấp các biện pháp kinh thích từ chính sách tài khóa và tiền tệ.

Kể từ khi xung đột thương mại Mỹ-Trung nổ ra từ đầu quý III/2018, chính phủ Trung Quốc đã có các biện pháp nhằm hỗ trợ nền kinh tế như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cắt giảm thuế thu nhập cá nhân, tăng chi tiêu cơ sở hạ tầng, bớt siết chặt hoạt động thị trường bất động sản...

Tuy vậy, các biện pháp này vẫn chưa mang lại nhiều hiệu quả khi các số liệu kinh tế của Trung Quốc vẫn khá ảm đạm. Sản xuất công nghiệp, đầu tư tài sản cố định và doanh số bán lẻ của Trung Quốc vẫn đang trong xu hướng giảm dần trong khi các chỉ số mang tính dẫn báo và khá "nhạy" như PMI hay Caixin cũng đã liên tục đi xuống và giảm xuống dưới mức 50 điểm trong tháng 12/2018 vừa qua.

Cuối tuần trước, Trung Quốc đã tuyên bố sẽ cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm khoảng 1% nhằm tăng thanh khoản, khuyến khích hoạt động cho vay của các ngân hàng. Mặc dù về lý thuyết, việc cắt giảm tỷ lệ dữ trữ bắt buộc sẽ có tác động rất mạnh tới cung tiền nhưng bên cạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì Trung Quốc còn có nhiều công cụ khác để điều tiết thanh khoản của hệ thống.

Theo nhận định của BVSC, thế lưỡng nan của Trung Quốc hiện nay là đang chịu áp lực phải hỗ trợ cho tăng trưởng trong ngắn hạn trong khi vẫn phải thực hiện mục tiêu hạ đòn bẩy và giảm rủi ro cho hệ thống tài chính trong dài hạn. Ngoài cắt giảm tỷ lệ dữ trữ bắt buộc thì Trung Quốc có thể sẽ xem xét giảm lãi suất cho vay tham chiếu kỳ hạn 1 năm trong thời gian tới (hiện ở mức 4,35% ,không thay đổi kể từ tháng 10/2015).

Những khó khăn nêu trên của kinh tế Trung Quốc cũng như sự bất ổn của TTCK Mỹ gần đây với việc các doanh nghiệp Mỹ, điển hình như Apple hạ triển vọng kinh doanh trong năm 2019 cho thấy những tác động từ chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang ngấm dần vào nền kinh tế thực.

Liệu có một thoả thuận thương mại mới?

BVSC cho rằng: không như các lần áp thuế quan trả đũa lên nhau giữa Mỹ và Trung Quốc trong năm 2018, sự bất ổn của thị trường tài chính cũng như ngày càng có nhiều sự phản hồi từ phía các doanh nghiệp Mỹ đang đặt chính quyền của Tổng thống Donald Trump vào một vị thế nhiều sức ép hơn so với giai đoạn đầu khởi phát chiến tranh thương mại với Trung Quốc.

Điều này có thể là nhân tố gây sức ép đối với cả Mỹ và Trung Quốc trong việc nỗ lực tìm kiếm một thỏa thuận thương mại.

Tuy vậy, cuộc họp 2 ngày (7/1 và 8/1/2019) ở Bắc Kinh mới chỉ diễn ra ở cấp thứ trưởng (đại diện phía Mỹ là phó đại diện thương mại Jeffrey Gerrish và David Malpass - thứ trưởng phụ trách các vấn đề quốc tế của Bộ Tài chính Mỹ) nên sẽ khó có kết quả đột phá. Nhân vật quan trọng nhất của Mỹ trong đàm phán thương mại là ông Robert Lighthizer không đến Bắc Kinh lần này.

Do vậy, kết quả cuộc gặp tại Bắc Kinh sau ngày 8/1, theo BVSC, nhiều khả năng sẽ khá hạn chế và chỉ là "bước đệm" để đi đến các cuộc gặp ở cấp cao và chủ chốt hơn khi Phó Thủ tướng Trung Quốc Lưu Hạc có thể sẽ gặp đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer vào cuối tháng 1/2019.

kinh te ngam don trung quoc vao the luong nan truoc my
Kết quả cuộc gặp tại Bắc Kinh sau ngày 8/1 nhiều khả năng sẽ khá hạn chế

Về tổng thể, BVSC nghiêng về khả năng vào cuối tháng 1, đầu tháng 2 sắp tới, đàm phán thương mại Mỹ-Trung sẽ có kết quả rõ ràng hơn và có thể theo hướng tích cực.

Tuy vậy, sự tích cực này sẽ ở mức độ vừa phải, tức có khả năng Mỹ sẽ tạm thời chưa tăng mức thuế lên 25% kể từ đầu tháng 3/2019 và sẽ tiếp tục gia hạn thêm một khoảng thời gian để hai bên có thể tiếp tục đàm phán cũng như tạo điều kiện để Trung Quốc có thêm thời gian đáp ứng các yêu cầu của Mỹ liên quan đến các vấn đề rất gai góc như: bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tiếp cận thị trường hay kế hoạch "Made in China 2025". Đổi lại, Mỹ có thể có được cam kết mua thêm hàng nông sản (đậu nành) và năng lượng (dầu, khí đốt) của Trung Quốc.

Trong một bức tranh tổng thể hơn, năm 2018 đánh dấu thời điểm quan hệ Mỹ-Trung chuyển từ trạng thái "hợp tác" sang "đối đầu", trong đó thương mại chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Sự thay đổi về mặt chiến lược này được dự báo sẽ diễn ra rất phức tạp và còn kéo dài.

Khả năng có thỏa thuận thương mại trước thời điểm ngày 1/3/2019 là cao nhưng về tổng thể, sức ép từ Mỹ lên Trung Quốc sẽ không giảm. Tuy vậy, Mỹ có thể sẽ chuyển dần sức ép từ mặt trận thương mại sang các vấn đề mang tính chọn lọc khác như công nghệ, chính trị, quân sự..

Theo Dân trí

kinh te ngam don trung quoc vao the luong nan truoc my Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung: Khẳng định sự độc tôn và trật tự thế giới
kinh te ngam don trung quoc vao the luong nan truoc my Đàm phán thương mại Trung - Mỹ có tiến triển
kinh te ngam don trung quoc vao the luong nan truoc my Ông Trump nêu lý do Trung Quốc chấp thuận nhượng bộ Mỹ

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 ▼500K 119,200 ▼500K
AVPL/SJC HCM 117,200 ▼500K 119,200 ▼500K
AVPL/SJC ĐN 117,200 ▼500K 119,200 ▼500K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,760 ▼50K 11,100 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,750 ▼50K 11,090 ▼50K
Cập nhật: 28/06/2025 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
TPHCM - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Hà Nội - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Hà Nội - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Đà Nẵng - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Đà Nẵng - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Miền Tây - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Miền Tây - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.400 ▼300K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.400 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 ▼300K 115.200 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 ▼300K 115.090 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 ▼300K 114.380 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 ▼300K 114.150 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 ▼230K 86.550 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 ▼180K 67.540 ▼180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 ▼130K 48.070 ▼130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 ▼280K 105.620 ▼280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 ▼190K 70.420 ▼190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 ▼200K 75.030 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 ▼200K 78.490 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 ▼110K 43.350 ▼110K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 ▼100K 38.170 ▼100K
Cập nhật: 28/06/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 ▼30K 11,590 ▼30K
Trang sức 99.9 11,130 ▼30K 11,580 ▼30K
NL 99.99 10,820 ▼30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 ▼30K 11,650 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 ▼30K 11,650 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 ▼30K 11,650 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 11,720 ▼50K 11,920 ▼50K
Miếng SJC Nghệ An 11,720 ▼50K 11,920 ▼50K
Miếng SJC Hà Nội 11,720 ▼50K 11,920 ▼50K
Cập nhật: 28/06/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16510 16778 17354
CAD 18536 18813 19432
CHF 32001 32383 33032
CNY 0 3570 3690
EUR 29944 30217 31250
GBP 34978 35372 36310
HKD 0 3193 3396
JPY 173 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15492 16077
SGD 19904 20187 20716
THB 715 778 835
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 28/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 28/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 28/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 28/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,250
USD20 25,920 25,970 26,250
USD1 25,920 25,970 26,250
AUD 16,768 16,918 17,992
EUR 30,238 30,388 31,575
CAD 18,708 18,808 20,125
SGD 20,150 20,300 20,777
JPY 177.69 179.19 183.84
GBP 35,429 35,579 36,378
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,489 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 28/06/2025 23:00