Hiệp hội Vận tải: Coi Uber, Grab là xe taxi sẽ dễ quản lý, đúng bản chất

18:30 | 16/10/2018

242 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Phó chủ tịch Hiệp hội Vận tải cho rằng, gọi Uber, Grab là xe hợp đồng điện tử thay vì taxi là "cố tình đánh tráo khái niệm".

Tại buổi làm việc của Tổ công tác Chính phủ ngày 16/10, đề cập tới điều kiện kinh doanh taxi, ông Nguyễn Công Hùng - Phó chủ tịch Hiệp hội Taxi Hà Nội cho rằng, đang có quan điểm cố tình đánh tráo khái niệm khi cho rằng, ôtô chở khách hoạt động kiểu Uber, Grab không phải là taxi mà là xe hợp đồng điện tử.

Theo ông, quá trình lấy ý kiến các chuyên gia, thẩm định Bộ Tư pháp... đều khẳng định thực chất đây là xe taxi điện tử. Cách gọi qua tổng đài điện thoại hay qua phần mềm, cách đo quãng đường xe chạy và tính tiền bằng đồng hồ hay phần mềm chỉ là hình thức của thủ tục, đều có giá trị tương đương chứ không phải là bản chất của loại hình vận tải.

“Có ý kiến bao biện rằng nếu coi Uber, Grab là taxi sẽ kìm hãm sự phát triển của khoa học công nghệ, rất vô lý. Quy định taxi truyền thống hay taxi công nghệ thì đều là taxi sẽ đúng bản chất, bảo đảm dễ quản lý và bình đẳng các nghĩa vụ, trách nhiệm. Còn anh nào ứng dụng công nghệ tiên tiến thì anh đó sẽ có lợi nhuận cao hơn”, Phó chủ tịch Hiệp hội Taxi Hà Nội lập luận.

Hiệp hội Vận tải: Coi Uber, Grab là xe taxi sẽ dễ quản lý, đúng bản chất
Ông Nguyễn Công Hùng - Phó chủ tịch Hiệp hội Taxi Hà Nội. Ảnh: Nhật Bắc

Trong khi đó, Chủ tịch Hiệp hội Taxi TP HCM Tạ Long Hỷ cũng đồng tình việc dự thảo đưa ra định danh các đơn vị vận tải. Theo đó, nếu cung cấp phần mềm, cho thuê phần mềm đơn thuần, không can thiệp vào quá trình vận tải thì chỉ là đơn vị cung cấp phần mềm. Còn nếu đơn vị đó tham gia định giá cước, thu tiền, phân phối lợi nhuận, thậm chí bỏ hàng chục tỷ để khuyến mãi sản phẩm vận tải thì đương nhiên là kinh doanh vận tải.

Vị này cũng cho rằng, các xe chở khách 9 chỗ ngồi trở xuống, kết nối qua phần mềm hoặc không kết nối qua phần mềm nhưng trong nội đô và tính chất, bản chất giống nhau thì coi là taxi. “Mặt bằng chung là taxi cái đã, còn taxi loại gì thì Bộ Giao thông có thể quy định riêng. Không nên tạo một sân chơi, chợ riêng cho một loại nào đó mà bản chất là taxi”, ông Hỷ nói.

Chủ tịch Hiệp hội taxi TP HCM cũng kiến nghị, để phân biệt giữa kinh doanh và không kinh doanh chở khách thì tất cả xe, trước hết là 9 chỗ trở xuống nên có biển số khác hoặc có đặc điểm khác trên biển số. “Cái tối thiểu làm được ngay là Bộ Giao thông quy định nếu anh kinh doanh thì tem kiểm định quy định màu khác hoặc lớn gấp hai lần tem kiểm định bình thường. Anh kinh doanh thì việc kiểm tra phải khác xe gia đình”, ông Hỷ đề nghị.

'52 lần một năm tới Sở xin cấp phép, thời gian đâu làm việc'

Tại cuộc họp, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn Phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng tỏ ý không hài lòng về dự thảo sửa đổi Nghị định 86. "Dự thảo Nghị định này không những không gỡ khó mà đưa ra thủ tục phức tạp hơn quy định cũ", ông nhận xét.

Ông dẫn chứng, dự thảo Nghị định thay thế quy định thời gian của phù hiệu tăng cường cuối tuần là “không quá 3 ngày”. Như vậy, doanh nghiệp sẽ phải đến Sở Giao thông Vận tải 52 lần một năm để xin cấp phù hiệu tăng cường dịp cuối tuần. "52 lần trong một năm tới Sở thì còn thời gian đâu làm việc nữa", ông nói.

Cũng chỉ ra lỗ hổng trong Nghị định 86 sửa đổi, ông Nguyễn Công Hùng nêu quan điểm, Luật Giao thông đường bộ quy định 5 loại hình vận tải, cần áp dụng công nghệ đối với cả 5, không thể chỉ áp dụng với 2 loại hình vận tải hợp đồng du lịch như dự thảo. Do chưa có phần mềm quản lý vận tải tự động nên các lực lượng chức năng không thể kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm.

"Bộ Giao thông đã cử các đoàn cán bộ đi nghiên cứu, học tập ở các nước nhưng không hiểu tại sao lại không áp dụng. Điều này khiến dư luận nghi ngờ có sự thiếu khách quan, cố tình tạo kẽ hở trong xây dựng chính sách vì lợi ích nhóm", ông nói.

Điểm khác tại dự thảo Nghị định 86 sửa đổi gây tranh cãi là quy định doanh nghiệp, hợp tác xã khai thác tuyến cố định “ký hợp đồng với bến xe khách để tổ chức khai thác tuyến”.

"Điểm này cố tình tạo điều kiện để bến xe độc quyền, gây khó khăn cho doanh nghiệp, quay lại tình trạng cách đây 15 năm “thủ kho to hơn thủ trưởng”, Phó chủ tịch Hiệp hội Vận tải ôtô Việt Nam nêu.

Bộ trưởng Mai Tiến Dũng đề nghị lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải lắng nghe và tiếp thu, "tránh tạo ra khoảng trống pháp lý, tạo kẽ hở khi Bộ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật". Trả lời ngắn gọn, Thứ trưởng Giao thông Nguyễn Ngọc Đông nói "việc sửa Nghị định 86 rất phức tạp, Bộ sẽ tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện dự thảo trình Chính phủ ban hành".

Theo VnExpres.net

Hiệp hội taxi 3 miền "tố" Bộ GTVT vi phạm quy định tiếp công dân
Grab và Uber bị phạt 9,5 triệu USD vì vụ sáp nhập ở Singapore
Thị trường taxi công nghệ, cuộc đua đốt tiền của các “đại gia” chịu chi
Ngành giao thông không chỉ "tắc đường" mà còn "tắc tư duy, tắc giải pháp"

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,400 ▲500K 117,700 ▲500K
AVPL/SJC HCM 115,400 ▲500K 117,700 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 115,400 ▲500K 117,700 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 ▲50K 11,200 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 ▲50K 11,190 ▲50K
Cập nhật: 05/06/2025 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.900 ▲700K 114.000 ▲400K
TPHCM - SJC 115.400 ▲500K 117.700 ▲500K
Hà Nội - PNJ 111.900 ▲700K 114.000 ▲400K
Hà Nội - SJC 115.400 ▲500K 117.700 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 111.900 ▲700K 114.000 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 115.400 ▲500K 117.700 ▲500K
Miền Tây - PNJ 111.900 ▲700K 114.000 ▲400K
Miền Tây - SJC 115.400 ▲500K 117.700 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.900 ▲700K 114.000 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.400 ▲500K 117.700 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.900 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.400 ▲500K 117.700 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.900 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.900 ▲700K 114.000 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.900 ▲700K 114.000 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.000 ▲500K 113.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.890 ▲500K 113.390 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.190 ▲490K 112.690 ▲490K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.970 ▲500K 112.470 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.780 ▲380K 85.280 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.050 ▲290K 66.550 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.870 ▲210K 47.370 ▲210K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.570 ▲460K 104.070 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.890 ▲310K 69.390 ▲310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.430 ▲330K 73.930 ▲330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.830 ▲340K 77.330 ▲340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.210 ▲180K 42.710 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.110 ▲170K 37.610 ▲170K
Cập nhật: 05/06/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,010 ▲20K 11,440 ▲20K
Trang sức 99.9 11,000 ▲20K 11,430 ▲20K
NL 99.99 10,760 ▲10K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,760 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,220 ▲20K 11,500 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,220 ▲20K 11,500 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,220 ▲20K 11,500 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 11,540 ▲50K 11,770 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 11,540 ▲50K 11,770 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 11,540 ▲50K 11,770 ▲50K
Cập nhật: 05/06/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16445 16713 17294
CAD 18558 18835 19456
CHF 31157 31535 32186
CNY 0 3530 3670
EUR 29144 29414 30444
GBP 34566 34958 35899
HKD 0 3192 3394
JPY 175 179 185
KRW 0 18 19
NZD 0 15456 16047
SGD 19753 20034 20562
THB 717 781 834
USD (1,2) 25808 0 0
USD (5,10,20) 25848 0 0
USD (50,100) 25876 25910 26244
Cập nhật: 05/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,884 25,884 26,244
USD(1-2-5) 24,849 - -
USD(10-20) 24,849 - -
GBP 34,872 34,966 35,892
HKD 3,263 3,273 3,372
CHF 31,341 31,438 32,312
JPY 178.35 178.68 186.67
THB 762.56 771.97 826.18
AUD 16,692 16,752 17,202
CAD 18,808 18,868 19,376
SGD 19,912 19,974 20,601
SEK - 2,670 2,763
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,921 4,056
NOK - 2,534 2,622
CNY - 3,591 3,688
RUB - - -
NZD 15,387 15,530 15,980
KRW 17.81 18.57 19.94
EUR 29,288 29,311 30,560
TWD 786.32 - 951.96
MYR 5,742.63 - 6,479.42
SAR - 6,832.24 7,191.26
KWD - 82,738 87,969
XAU - - -
Cập nhật: 05/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,910 26,244
EUR 29,186 29,303 30,410
GBP 34,703 34,842 35,830
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 31,286 31,412 32,318
JPY 178.09 178.81 186.23
AUD 16,606 16,673 17,203
SGD 19,929 20,009 20,550
THB 780 783 818
CAD 18,729 18,804 19,327
NZD 15,488 15,992
KRW 18.32 20.18
Cập nhật: 05/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25893 25893 26244
AUD 16621 16721 17291
CAD 18734 18834 19389
CHF 31404 31434 32312
CNY 0 3596.2 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29415 29515 30288
GBP 34858 34908 36026
HKD 0 3270 0
JPY 178.55 179.55 186.07
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15561 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19909 20039 20771
THB 0 746.8 0
TWD 0 850 0
XAU 11150000 11150000 11750000
XBJ 10800000 10800000 11750000
Cập nhật: 05/06/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,244
USD20 25,920 25,970 26,244
USD1 25,920 25,970 26,244
AUD 16,645 16,795 17,869
EUR 29,487 29,637 30,815
CAD 18,673 18,773 20,089
SGD 19,981 20,131 20,610
JPY 179.6 181.1 185.75
GBP 34,934 35,084 35,882
XAU 11,538,000 0 11,772,000
CNY 0 3,483 0
THB 0 782 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 05/06/2025 23:00