“Giật mình” vì bội chi ngân sách

07:00 | 17/06/2016

517 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ngày 3-6-2016, tại Hà Nội, Hội nghị cấp cao Nhóm đối tác tài chính công (PFPG) đã được Bộ Tài chính và Ngân hàng Thế giới (WB) đồng chủ trì tổ chức, với chủ đề: “Cải cách chi tiêu công”. Đây là hoạt động đối thoại thường niên từ năm 2014 đến nay giữa Bộ Tài chính và các đối tác phát triển, các nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế về tài chính công Việt Nam.

Một thông điệp nổi bật tại Hội nghị PFPG-2016 này là: Việt Nam hiện đã thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng kinh tế vĩ mô, lạm phát đã được kiềm chế thành công, môi trường kinh doanh được cải thiện, tăng trưởng được duy trì ở mức hợp lý…; nhưng Việt Nam cũng đang đối mặt nhiều thách thức, trong đó có tăng gánh nặng nợ công và bội chi ngân sách Nhà nước (NSNN); tăng tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả hoạt động chi tiêu công, gắn với các ưu tiên của quốc gia, để bảo đảm công bằng, an toàn tài chính quốc gia và tăng trưởng bền vững trong giai đoạn 2016-2020…

giat minh vi boi chi ngan sach
Đường Phạm Văn Đồng (TP Hồ Chí Minh)

Bội chi NSNN là căn bệnh mãn tính của nhiều quốc gia, nhưng đối với Việt Nam gần đây, vì nhiều lý do, có xu hướng tăng đáng ngại. Theo Báo cáo của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội tháng 3-2016, bội chi NSNN năm sau cao hơn năm trước, không đạt mục tiêu đề ra. Cụ thể, năm 2011 mức bội chi là 4,4% GDP, năm 2012 là 5,4% GDP, năm 2013 là 6,6% GDP, năm 2014 là 5,64% GDP và năm 2015 là 6,11% GDP, mức kế hoạch cho phép là dưới 5%. Các khoản chi ngoài ngân sách cũng gia tăng nhanh chóng. Riêng trong 5 tháng đầu năm 2016, tổng thu NSNN đạt 346,2 nghìn tỉ đồng, bằng 34,1% dự toán năm, tức thấp hơn cùng kỳ năm trước trong tất cả các nguồn thu; Tổng chi NSNN là 412,6 nghìn tỉ đồng, bằng 32,4% dự toán năm (trong đó, chi đầu tư phát triển 64,3 nghìn tỉ đồng, bằng 25,2%; chi sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính 293,4 nghìn tỉ đồng, bằng 35,1%; chi trả nợ và viện trợ 55 nghìn tỉ đồng, bằng 35,4%), mức bội chi NSNN là 66.400 tỉ đồng, tức chiếm 26% trong tổng bội chi 254 nghìn tỉ đồng (4,95% GDP, tăng 28.000 tỉ đồng so với năm 2015) dự toán cả năm 2016. Phát hành trái phiếu Chính phủ được gần 111.790,9 tỉ đồng, đạt 50,8% nhiệm vụ huy động 220.000 tỉ đồng vốn trong nước để bù đắp bội chi ngân NSNN và cho đầu tư phát triển năm 2016. Tổng phương tiện thanh toán ước tăng 5,88% so với tháng 12-2015 (cùng kỳ năm 2015 tăng 3,64%). Tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 4,52% (cùng kỳ tăng 4,26%).

Với tỷ lệ thực hiện dự toán thu - chi và tổng mức bội chi trong 5 tháng qua như vậy cho thấy nỗ lực chấp hành nghiêm kế hoạch NSNN đáng ghi nhận của ngành tài chính và các cơ quan hữu quan. Tuy nhiên, nguyên nhân gây bội chi và cơ cấu chi NSNN mới là điều đáng “giật mình” quan ngại. Bội chi NSNN luôn ở mức cao do xu hướng tốc độ tăng chi cao hơn tốc độ tăng thu và giảm nhanh tỷ lệ huy động vào NSNN từ GDP. Cơ cấu chi NSNN trong 5 tháng qua đáng giật mình, vì tổng chi đầu tư phát triển (64,3 ngàn tỉ đồng) chưa bằng 16% tổng chi NSNN và nguy hiểm nhất là thấp hơn cả mức bội chi 66,4 ngàn tỉ đồng (trong khi NSNN còn nợ nhiều khoản chi chưa có nguồn thanh toán: Nợ xây dựng cơ bản còn lớn; nợ hai ngân hàng chính sách; nợ các chính sách đã ban hành…). Điều này có nghĩa là thu NSNN đã không còn đủ chi thường xuyên và trả nợ công; nói cách khác, bội chi không chỉ để đầu tư phát triển, mà còn là để chi thường xuyên và trả nợ quốc gia. Bẫy nợ và bờ vực phá sản quốc gia đang không còn là chuyện của trời Âu hay châu Phi xa xôi?!

Bội chi có nguồn gốc không chỉ từ sự phình ra của bộ máy quản lý Nhà nước và hệ thống chính trị nhận tài trợ chi thường xuyên từ NSNN, mà còn từ sự quản lý NSNN, thu - chi tài chính công vừa thất thu, thất thoát, vừa lãng phí và kém hiệu quả. Các sai phạm về quản lý tài chính ngân sách được phát hiện, xử lý và thu hồi, giảm thanh toán theo kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước cũng tăng chóng mặt, từ 317 tỉ đồng năm 2009, lên 5.304,2 tỉ đồng năm 2013 và tới hàng chục ngàn tỉ đồng năm 2015… Ngoài ra, nợ công của Việt Nam năm 2015 đã tăng gấp đôi so với năm 2010; riêng nợ Chính phủ chiếm 50,3% GDP, tức đã vượt ngưỡng Quốc hội cho phép 0,3% GDP; đến 31-12-2016 nợ công ước khoảng 63,2% GDP.

Thu ngân sách năm nào cũng vượt kế hoạch, nhưng cân đối ngân sách năm nào cũng “hết sức khó khăn”, chi thường xuyên đang tăng quá nhanh, đặc biệt là chi cho các đơn vị sự nghiệp. Năm 2016, dự toán chi thường xuyên là 824.000 tỉ đồng, chiếm 65% trong tổng dự toán chi NSNN hơn 1.273.000 tỉ đồng). Đặc biệt, chi lương cho hơn 55.800 đơn vị sự nghiệp công chiếm gần 39% tổng chi lương toàn hệ thống, so với chi cho cơ quan hành chính từ Trung ương đến xã chỉ chiếm tỷ lệ chi chưa đến 9%.

Cơ cấu thực chi NSNN hằng năm khiến ngay cả Phó thủ tướng cũng “giật mình” và muốn hay không thì Quốc hội vẫn phải chấp nhận kết quả thực về chi và bội chi như “sự đã rồi” và sẽ tái diễn; vì quan trọng hơn là không ai thấy có lỗi và phải chịu bất kỳ trách nhiệm cá nhân nào về mức bội chi “vượt kế hoạch” này?!

Điều đó đòi hỏi Chính phủ cần có giải pháp xử lý tích cực và cương quyết hơn, tập trung điều chỉnh cơ cấu NSNN theo hướng tăng thu, tiết kiệm chi, giảm bội chi; nâng cao hiệu quả chi tiêu công và tái cơ cấu nợ công, kéo dài kỳ hạn nợ, giảm nghĩa vụ trả nợ lãi, kiểm soát chặt chẽ các khoản bảo lãnh Chính phủ, các khoản nợ của chính quyền địa phương, nợ xây dựng; thống nhất công tác quản lý nợ nước ngoài, các khoản vay của Chính phủ vào một đầu mối nhằm theo dõi, quản lý và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đúng quy định; đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch; tăng cường xã hội hóa, phân cấp và tự chủ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp loại hình dịch vụ, khả năng và nhu cầu thị trường, trình độ quản lý; tăng cường trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu, cương quyết chống lãng phí, tiêu cực, căn bệnh chạy đua các dự án “hoàng tráng”, sự lạm dụng kẽ hở luật pháp và hành xử theo sự chi phối của lối tư duy nhiệm kỳ và lợi ích nhóm; kịp thời nhận diện và khắc phục triệt để các tồn tại, yếu kém trong Luật NSNN; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật Phòng, chống tham nhũng… Phấn đấu đến năm 2020, tỷ trọng chi thường xuyên giảm khoảng 10% so với dự toán năm 2015; tăng chi đầu tư phát triển lên trên 20%, đảm bảo nợ công không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 55% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP…

Năm 2011 bội chi là 4,4% GDP, năm 2012 là 5,4% GDP, năm 2013 là 6,6% GDP, năm 2014 là 5,64% GDP và năm 2015 là 6,11% GDP, mức kế hoạch cho phép là dưới 5%

TS Nguyễn Minh Phong

Năng lượng Mới 532

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 83,500 85,700
AVPL/SJC HCM 83,500 85,700
AVPL/SJC ĐN 83,500 85,700
Nguyên liệu 9999 - HN 73,150 74,050
Nguyên liệu 999 - HN 73,050 73,950
AVPL/SJC Cần Thơ 83,500 85,700
Cập nhật: 06/05/2024 04:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.100 74.950
TPHCM - SJC 83.500 85.900
Hà Nội - PNJ 73.100 74.950
Hà Nội - SJC 83.500 85.900
Đà Nẵng - PNJ 73.100 74.950
Đà Nẵng - SJC 83.500 85.900
Miền Tây - PNJ 73.100 74.950
Miền Tây - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.100 74.950
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.100
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.100
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.000 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.100 55.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.920 43.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.450 30.850
Cập nhật: 06/05/2024 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,285 7,490
Trang sức 99.9 7,275 7,480
NL 99.99 7,280
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,260
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,350 7,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,350 7,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,350 7,520
Miếng SJC Thái Bình 8,360 8,580
Miếng SJC Nghệ An 8,360 8,580
Miếng SJC Hà Nội 8,360 8,580
Cập nhật: 06/05/2024 04:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,500 85,900
SJC 5c 83,500 85,920
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,500 85,930
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900
Nữ Trang 99.99% 73,000 74,000
Nữ Trang 99% 71,267 73,267
Nữ Trang 68% 47,975 50,475
Nữ Trang 41.7% 28,511 31,011
Cập nhật: 06/05/2024 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,354.34 16,519.54 17,049.50
CAD 18,090.38 18,273.11 18,859.33
CHF 27,341.37 27,617.55 28,503.54
CNY 3,436.06 3,470.77 3,582.65
DKK - 3,598.26 3,736.05
EUR 26,625.30 26,894.25 28,085.20
GBP 31,045.53 31,359.12 32,365.15
HKD 3,169.44 3,201.45 3,304.16
INR - 303.80 315.94
JPY 161.02 162.65 170.43
KRW 16.21 18.02 19.65
KWD - 82,506.00 85,804.46
MYR - 5,303.65 5,419.33
NOK - 2,286.73 2,383.82
RUB - 265.97 294.43
SAR - 6,753.59 7,023.59
SEK - 2,299.45 2,397.08
SGD 18,345.10 18,530.40 19,124.88
THB 611.06 678.96 704.95
USD 25,117.00 25,147.00 25,457.00
Cập nhật: 06/05/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,480 16,500 17,100
CAD 18,246 18,256 18,956
CHF 27,506 27,526 28,476
CNY - 3,435 3,575
DKK - 3,573 3,743
EUR #26,453 26,663 27,953
GBP 31,283 31,293 32,463
HKD 3,119 3,129 3,324
JPY 161.69 161.84 171.39
KRW 16.52 16.72 20.52
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,252 2,372
NZD 15,012 15,022 15,602
SEK - 2,273 2,408
SGD 18,246 18,256 19,056
THB 637.99 677.99 705.99
USD #25,100 25,100 25,457
Cập nhật: 06/05/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,157.00 25,457.00
EUR 26,777.00 26,885.00 28,090.00
GBP 31,177.00 31,365.00 32,350.00
HKD 3,185.00 3,198.00 3,304.00
CHF 27,495.00 27,605.00 28,476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16,468.00 16,534.00 17,043.00
SGD 18,463.00 18,537.00 19,095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18,207.00 18,280.00 18,826.00
NZD 0.00 15,007.00 15,516.00
KRW 0.00 17.91 19.60
Cập nhật: 06/05/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25170 25170 25457
AUD 16588 16638 17148
CAD 18360 18410 18865
CHF 27797 27847 28409
CNY 0 3473 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27081 27131 27841
GBP 31618 31668 32331
HKD 0 3250 0
JPY 164.03 164.53 169.07
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0371 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15068 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18623 18673 19227
THB 0 651.5 0
TWD 0 780 0
XAU 8350000 8350000 8550000
XBJ 6500000 6500000 7280000
Cập nhật: 06/05/2024 04:00