“Giật mình” vì bội chi ngân sách

07:00 | 17/06/2016

528 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ngày 3-6-2016, tại Hà Nội, Hội nghị cấp cao Nhóm đối tác tài chính công (PFPG) đã được Bộ Tài chính và Ngân hàng Thế giới (WB) đồng chủ trì tổ chức, với chủ đề: “Cải cách chi tiêu công”. Đây là hoạt động đối thoại thường niên từ năm 2014 đến nay giữa Bộ Tài chính và các đối tác phát triển, các nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế về tài chính công Việt Nam.

Một thông điệp nổi bật tại Hội nghị PFPG-2016 này là: Việt Nam hiện đã thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng kinh tế vĩ mô, lạm phát đã được kiềm chế thành công, môi trường kinh doanh được cải thiện, tăng trưởng được duy trì ở mức hợp lý…; nhưng Việt Nam cũng đang đối mặt nhiều thách thức, trong đó có tăng gánh nặng nợ công và bội chi ngân sách Nhà nước (NSNN); tăng tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả hoạt động chi tiêu công, gắn với các ưu tiên của quốc gia, để bảo đảm công bằng, an toàn tài chính quốc gia và tăng trưởng bền vững trong giai đoạn 2016-2020…

giat minh vi boi chi ngan sach
Đường Phạm Văn Đồng (TP Hồ Chí Minh)

Bội chi NSNN là căn bệnh mãn tính của nhiều quốc gia, nhưng đối với Việt Nam gần đây, vì nhiều lý do, có xu hướng tăng đáng ngại. Theo Báo cáo của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội tháng 3-2016, bội chi NSNN năm sau cao hơn năm trước, không đạt mục tiêu đề ra. Cụ thể, năm 2011 mức bội chi là 4,4% GDP, năm 2012 là 5,4% GDP, năm 2013 là 6,6% GDP, năm 2014 là 5,64% GDP và năm 2015 là 6,11% GDP, mức kế hoạch cho phép là dưới 5%. Các khoản chi ngoài ngân sách cũng gia tăng nhanh chóng. Riêng trong 5 tháng đầu năm 2016, tổng thu NSNN đạt 346,2 nghìn tỉ đồng, bằng 34,1% dự toán năm, tức thấp hơn cùng kỳ năm trước trong tất cả các nguồn thu; Tổng chi NSNN là 412,6 nghìn tỉ đồng, bằng 32,4% dự toán năm (trong đó, chi đầu tư phát triển 64,3 nghìn tỉ đồng, bằng 25,2%; chi sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính 293,4 nghìn tỉ đồng, bằng 35,1%; chi trả nợ và viện trợ 55 nghìn tỉ đồng, bằng 35,4%), mức bội chi NSNN là 66.400 tỉ đồng, tức chiếm 26% trong tổng bội chi 254 nghìn tỉ đồng (4,95% GDP, tăng 28.000 tỉ đồng so với năm 2015) dự toán cả năm 2016. Phát hành trái phiếu Chính phủ được gần 111.790,9 tỉ đồng, đạt 50,8% nhiệm vụ huy động 220.000 tỉ đồng vốn trong nước để bù đắp bội chi ngân NSNN và cho đầu tư phát triển năm 2016. Tổng phương tiện thanh toán ước tăng 5,88% so với tháng 12-2015 (cùng kỳ năm 2015 tăng 3,64%). Tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 4,52% (cùng kỳ tăng 4,26%).

Với tỷ lệ thực hiện dự toán thu - chi và tổng mức bội chi trong 5 tháng qua như vậy cho thấy nỗ lực chấp hành nghiêm kế hoạch NSNN đáng ghi nhận của ngành tài chính và các cơ quan hữu quan. Tuy nhiên, nguyên nhân gây bội chi và cơ cấu chi NSNN mới là điều đáng “giật mình” quan ngại. Bội chi NSNN luôn ở mức cao do xu hướng tốc độ tăng chi cao hơn tốc độ tăng thu và giảm nhanh tỷ lệ huy động vào NSNN từ GDP. Cơ cấu chi NSNN trong 5 tháng qua đáng giật mình, vì tổng chi đầu tư phát triển (64,3 ngàn tỉ đồng) chưa bằng 16% tổng chi NSNN và nguy hiểm nhất là thấp hơn cả mức bội chi 66,4 ngàn tỉ đồng (trong khi NSNN còn nợ nhiều khoản chi chưa có nguồn thanh toán: Nợ xây dựng cơ bản còn lớn; nợ hai ngân hàng chính sách; nợ các chính sách đã ban hành…). Điều này có nghĩa là thu NSNN đã không còn đủ chi thường xuyên và trả nợ công; nói cách khác, bội chi không chỉ để đầu tư phát triển, mà còn là để chi thường xuyên và trả nợ quốc gia. Bẫy nợ và bờ vực phá sản quốc gia đang không còn là chuyện của trời Âu hay châu Phi xa xôi?!

Bội chi có nguồn gốc không chỉ từ sự phình ra của bộ máy quản lý Nhà nước và hệ thống chính trị nhận tài trợ chi thường xuyên từ NSNN, mà còn từ sự quản lý NSNN, thu - chi tài chính công vừa thất thu, thất thoát, vừa lãng phí và kém hiệu quả. Các sai phạm về quản lý tài chính ngân sách được phát hiện, xử lý và thu hồi, giảm thanh toán theo kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước cũng tăng chóng mặt, từ 317 tỉ đồng năm 2009, lên 5.304,2 tỉ đồng năm 2013 và tới hàng chục ngàn tỉ đồng năm 2015… Ngoài ra, nợ công của Việt Nam năm 2015 đã tăng gấp đôi so với năm 2010; riêng nợ Chính phủ chiếm 50,3% GDP, tức đã vượt ngưỡng Quốc hội cho phép 0,3% GDP; đến 31-12-2016 nợ công ước khoảng 63,2% GDP.

Thu ngân sách năm nào cũng vượt kế hoạch, nhưng cân đối ngân sách năm nào cũng “hết sức khó khăn”, chi thường xuyên đang tăng quá nhanh, đặc biệt là chi cho các đơn vị sự nghiệp. Năm 2016, dự toán chi thường xuyên là 824.000 tỉ đồng, chiếm 65% trong tổng dự toán chi NSNN hơn 1.273.000 tỉ đồng). Đặc biệt, chi lương cho hơn 55.800 đơn vị sự nghiệp công chiếm gần 39% tổng chi lương toàn hệ thống, so với chi cho cơ quan hành chính từ Trung ương đến xã chỉ chiếm tỷ lệ chi chưa đến 9%.

Cơ cấu thực chi NSNN hằng năm khiến ngay cả Phó thủ tướng cũng “giật mình” và muốn hay không thì Quốc hội vẫn phải chấp nhận kết quả thực về chi và bội chi như “sự đã rồi” và sẽ tái diễn; vì quan trọng hơn là không ai thấy có lỗi và phải chịu bất kỳ trách nhiệm cá nhân nào về mức bội chi “vượt kế hoạch” này?!

Điều đó đòi hỏi Chính phủ cần có giải pháp xử lý tích cực và cương quyết hơn, tập trung điều chỉnh cơ cấu NSNN theo hướng tăng thu, tiết kiệm chi, giảm bội chi; nâng cao hiệu quả chi tiêu công và tái cơ cấu nợ công, kéo dài kỳ hạn nợ, giảm nghĩa vụ trả nợ lãi, kiểm soát chặt chẽ các khoản bảo lãnh Chính phủ, các khoản nợ của chính quyền địa phương, nợ xây dựng; thống nhất công tác quản lý nợ nước ngoài, các khoản vay của Chính phủ vào một đầu mối nhằm theo dõi, quản lý và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đúng quy định; đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch; tăng cường xã hội hóa, phân cấp và tự chủ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp loại hình dịch vụ, khả năng và nhu cầu thị trường, trình độ quản lý; tăng cường trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu, cương quyết chống lãng phí, tiêu cực, căn bệnh chạy đua các dự án “hoàng tráng”, sự lạm dụng kẽ hở luật pháp và hành xử theo sự chi phối của lối tư duy nhiệm kỳ và lợi ích nhóm; kịp thời nhận diện và khắc phục triệt để các tồn tại, yếu kém trong Luật NSNN; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật Phòng, chống tham nhũng… Phấn đấu đến năm 2020, tỷ trọng chi thường xuyên giảm khoảng 10% so với dự toán năm 2015; tăng chi đầu tư phát triển lên trên 20%, đảm bảo nợ công không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 55% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP…

Năm 2011 bội chi là 4,4% GDP, năm 2012 là 5,4% GDP, năm 2013 là 6,6% GDP, năm 2014 là 5,64% GDP và năm 2015 là 6,11% GDP, mức kế hoạch cho phép là dưới 5%

TS Nguyễn Minh Phong

Năng lượng Mới 532

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 13:00