Điểm tin kinh tế ngày 22/5/19: Chứng khoán giảm nhẹ, vàng tiếp đà lao dốc

18:56 | 22/05/2019

163 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chứng khoán giảm nhẹ, VN-Index xuống 983,78 điểm; giá vàng lao dốc, xuống mức thấp nhất gần 2 tháng; tôm càng đỏ Trung Quốc 'nóng' diễn đàn Quốc hội... là những thông tin kinh tế nổi bật trong ngày 22/5.

Chứng khoán giảm nhẹ, VN-Index xuống 983,78 điểm

diem tin kinh te ngay 22519
Chỉ số chứng khoán hôm nay (22/5) của một số sàn lớn trên thế giới. (Nguồn: Maybank Kim Eng)

Dù tăng trong buổi sáng nhưng chịu áp lực lớn từ đà giảm của nhóm vốn hóa lớn, kết phiên VN-Index giảm nhẹ 2,51 điểm (-0,25%) xuống 983,78 điểm và HNX-index giảm nhẹ 0,15 điểm (-0,15%) xuống 106,13 điểm.

Thị trường Việt Nam tăng trong phiên sáng với sự tích cực lan tỏa ở nhiều cổ phiếu lớn. Diễn biến tiêu cực tại phiên chiều với đà giảm của các nhóm vốn hóa lớn như VNM (-1%), VHM (-0,2%), GAS (-0,9%), MSN (-1,4%), VRE (-0,6%), NVL (-2,2%), FPT (-1,4%), NT2 (-1,8%)…

Riêng nhóm ngân hàng CTG (+1,4%), MBB (+1,2%), VPB (+0,5%), BID (+0,5%) và nhóm vốn hóa lớn khác như HPG (+0,3%), PLX (+1,1%), HVN (0,7%), VJC (+0,6%), GMD (+0,2%) tăng nhẹ giúp đà giảm của VN-Index thu hẹp lại.

Kết phiên, VN-Index giảm nhẹ 2,51 điểm (-0,25%) xuống 983,78 điểm và HNX-index giảm nhẹ 0,15 điểm (-0,15%) xuống 106,13 điểm. Thị trường vẫn chịu áp lực chốt lời nhất định trong hôm nay và chấp nhận kết quả giảm nhẹ ở cả hai chỉ số. Trạng thái tại VN-Index tiếp tục duy trì mức tích cực nhẹ và HNX-Index vẫn là trung tính. Nhà đầu tư có thể duy trì tỷ trọng cổ phiếu nhỉnh hơn tiền trong bối cảnh hiện nay.

Giá vàng lao dốc, xuống mức thấp nhất gần 2 tháng

Theo Reuters, giá vàng giao ngay phiên chiều 22/5 đã giảm 0,1% xuống còn 1.274,10 USD/ounce. Trong phiên trước đó, kim loại đã giảm xuống còn 1.268,97 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 3/5. Giá vàng tương lai của Mỹ không đổi ở mức 1.273,70 USD/ounce. Đồng đô la đang ở mức cao nhất trong bốn tuần khi Mỹ cấm cửa nhà sản xuất thiết bị viễn thông Trung Quốc Huawei.

Giá vàng hiện cao hơn 5% so với mức đỉnh cuối tháng 2 năm 2019 là 1.346,73 USD mỗi ounce. Trong khi đó, lượng vàng quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust nắm giữ đã tăng 0,4% lên 739,69 tấn vào thứ ba. Tuy nhiên, lượng vàng nắm giữ đã giảm gần 7% trong năm nay, cho thấy sự quan tâm của nhà đầu tư đã giảm bớt trước vàng thỏi.

Tỷ lệ nội địa hóa hàng Việt tiếp tục nâng cao

Tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” ngày 21/5, Bộ Công Thương cho biết tỷ lệ nội địa hóa hàng Việt Nam đang tiếp tục tăng lên.

Cụ thể, sản xuất công nghiệp tăng trưởng tích cực, tỷ lệ nội địa hóa được nâng cao, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất, tiêu thụ cao. Chỉ số tăng trưởng sản xuất công nghiệp qua các năm có sự tăng trưởng đáng kể (năm 2018 là 10,2%; năm 2017 là 9,4%; năm 2016 là 7,5%; năm 2015 là 9,8%). Sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí, ước tăng 9,9%/năm, tiếp đó là ngành chế biến, chế tạo ước tăng 9%/năm.

Một số ngành sản xuất hàng Việt Nam có thế mạnh đã tăng tỷ lệ nội địa hóa và hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm (tỷ lệ nguyên phụ liệu nội địa của ngành dệt may chiếm khoảng 50%, tỷ lệ nội địa hóa ngành da giầy chiếm khoảng 40 - 50%; áp dụng công nghệ 4.0 trong sản xuất ô tô, chế biến sữa, sợi và dệt nhuộm của ngành dệt may nhằm tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm,…).

Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ từ năm 2009 đến nay đều có mức tăng trưởng khoảng 10% mỗi năm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ mức lạm phát phi mã 19,8% năm 2008 đã giảm xuống mức dưới 5% trong các năm gần đây.

TP HCM bảo đảm nguồn cung thịt lợn an toàn cho người tiêu dùng

Tính đến thời điểm này, trên địa bàn TP HCM chưa phát hiện dịch tả lợn châu Phi, nhưng trước tình hình dịch bệnh này diễn biến phức tạp, thành phố đã và đang triển khai nhiều giải pháp phòng, chống và giám sát chặt chẽ, đảm bảo nguồn cung thịt lợn an toàn cho người dân.

Để kiểm soát nguồn cung thịt lợn cung ứng, phân phối, tiêu thụ trên địa bàn thành phố, các sở, ngành TP HCM đã tăng cường lấy mẫu giám sát dịch lợn tả châu Phi từ các tỉnh, thành nhập vào thành phố. UBND TP HCM chỉ đạo các đơn vị liên quan tổ chức nhiều chốt kiểm dịch tạm thời tại các tuyến cửa ngõ của thành phố. Song song đó, phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành có nguồn cung ứng thịt lợn vào TP HCM để xác minh, quản lý khâu vận chuyển, giết mổ, phân phối, tiêu thụ…

Từ ngày 25/2 đến nay, cơ sở giết mổ tại TP HCM đã không tiếp nhận nguồn thịt lợn từ các tỉnh phía Bắc nhằm hạn chế nguy cơ xâm nhiễm mầm bệnh. Đồng thời, không cấp giấy kiểm dịch xuất sản phẩm thịt lợn từ những cơ sở giết mổ thuộc vùng có dịch lợn tả châu Phi, tăng cường kiểm tra đối với cơ sở giết mổ tại vùng tiếp giáp có xuất nguồn thịt lợn về TP HCM tiêu thụ.

Tôm càng đỏ Trung Quốc 'nóng' diễn đàn Quốc hội

Trước sự "gia nhập" ồ ạt của tôm càng đỏ, trong phiên thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội sáng 22/5, Bộ trưởng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết hiện Việt Nam có khoảng 100 sinh vật ngoại lai và kêu gọi có giải pháp quyết liệt ngăn chặn.

"Gác cửa là Bộ Tài nguyên & Môi trường, nhưng các loài này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cây nông nghiệp, vật nuôi nên chúng tôi phối hợp thêm. Mong địa phương thấy việc gì có lợi có dân, ảnh hưởng đến sản xuất thì xông vào. Đặc biệt là Đại biểu Quốc hội đưa vào chương trình tiếp xúc, hệ thống chính trị vào cuộc có giải pháp quyết liệt để ngăn chặn", Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nói.

"Chúng tôi đặt mục tiêu đến 2020 bằng mọi giải pháp cơ học, tuyên truyền cố gắng giảm một nửa, co dần lại những loại này. Hiện nay gây ảnh hưởng nặng nhất là ốc bươu vàng, cây mai dương", ông Cường thông tin. Theo ông, để làm được phải làm thường xuyên, bằng biện pháp kinh tế và hình sự.

Trước đó, ngày 19/5, Bộ NN&PTNT đã gửi công văn hoả tốc yêu cầu các cơ quan chức năng tăng cường kiểm soát loài tôm hùm đất Trung Quốc được bày bán tại Việt Nam. Một số đầu mối chuyên bán sỉ cũng tiết lộ, các nhà hàng ở Hà Nội, Sài Gòn nhập tương đối nhiều vì đây là món đặc sản đang gây sốt trên thị trường.

Ông Vương Đình Huệ: 'Nợ công 58,4% GDP vẫn còn cao'
ĐBQH Dương Quang Thành: “Bậc thang đại biểu đưa ra tính toán không đúng”
Phó thủ tướng: "Giá điện không gánh chi phí đầu tư ngoài ngành thua lỗ"
Chuyên gia Phạm Chi Lan: Tránh thống kê "kinh tế ngầm" đổi lấy % GDP hay nới trần nợ công

Lâm Anh (t/h)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 119,200
AVPL/SJC HCM 117,200 119,200
AVPL/SJC ĐN 117,200 119,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,760 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,750 11,090
Cập nhật: 30/06/2025 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.400 116.000
TPHCM - SJC 117.200 119.200
Hà Nội - PNJ 113.400 116.000
Hà Nội - SJC 117.200 119.200
Đà Nẵng - PNJ 113.400 116.000
Đà Nẵng - SJC 117.200 119.200
Miền Tây - PNJ 113.400 116.000
Miền Tây - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.400
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 115.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 115.090
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 114.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 114.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 86.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 67.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 48.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 105.620
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 70.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 75.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 78.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 43.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 38.170
Cập nhật: 30/06/2025 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 11,590
Trang sức 99.9 11,130 11,580
NL 99.99 10,820
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 11,650
Miếng SJC Thái Bình 11,720 11,920
Miếng SJC Nghệ An 11,720 11,920
Miếng SJC Hà Nội 11,720 11,920
Cập nhật: 30/06/2025 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16510 16778 17354
CAD 18536 18813 19432
CHF 32001 32383 33032
CNY 0 3570 3690
EUR 29944 30217 31250
GBP 34978 35372 36310
HKD 0 3193 3396
JPY 173 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15492 16077
SGD 19904 20187 20716
THB 715 778 835
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 30/06/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 30/06/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 30/06/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 30/06/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,250
USD20 25,920 25,970 26,250
USD1 25,920 25,970 26,250
AUD 16,768 16,918 17,992
EUR 30,238 30,388 31,575
CAD 18,708 18,808 20,125
SGD 20,150 20,300 20,777
JPY 177.69 179.19 183.84
GBP 35,429 35,579 36,378
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,489 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 30/06/2025 07:00