Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: Thay đổi mô hình tăng trưởng đi liền với tái cấu trúc nền kinh tế

21:00 | 06/10/2012

1,319 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Nền kinh tế đã đi được quá nửa chặng đường của năm 2012. Bên cạnh những thành quả đạt được thì tình trạng trì trệ của nền kinh tế vẫn chưa được dỡ bỏ hoàn toàn. Doanh nghiệp phải làm gì để vượt khó? Ngân hàng cần làm gì để hỗ trợ doanh nghiệp? Việt Nam phải làm gì để lấy lại sức hẫp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài? Xung quanh vấn đề này, phóng viên Năng lượng Mới đã có cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhằm tìm ra lời giải cho bài toán “hóc búa” trên.

PV: Mặc dù lãi suất đã giảm nhiều nhưng doanh nghiệp (DN) vẫn khó tiếp cận vốn vay. Vậy cần có những giải pháp gì để có thể cải thiện tình trạng này, thưa bà?

Bà Phạm Chi Lan: DN vẫn không tiếp cận được với vốn giá rẻ, trên thực tế DN ở hầu hết các lĩnh vực vẫn kêu là không tiếp cận được và họ vẫn có cảm nhận là giảm chi phí về lãi suất nhưng chủ yếu lại để cho các ngân hàng (NH) hưởng. Vì có tình trạng vay chéo giữa các NH rất nhiều và họ giải tỏa bớt vốn cho nhau bằng cách đó. Thành ra giảm lãi suất nhưng số DN được hưởng lợi lại rất ít, nhất là những DN có các khoản nợ cũ, thì thậm chí họ phải chịu lãi suất cao hơn, DN phản ánh là họ phải trả tới mức 30% cho các khoản vay đó. Do phải chịu thêm phần lãi sàn vì trả chậm. Đó vẫn là thực tế phổ biến ở các DN hiện nay. NH thì họ cũng có lý do của họ vì họ còn phải thẩm định dự án để đảm bảo là DN phải có khả năng hoàn trả. Nhiều NH cho rằng, DN vay thực chất là để đáo nợ chứ không phải để đầu tư, vì vậy họ cũng ngần ngại không cho vay. Niềm tin giữa 2 bên NH và DN đang ở trong trạng thái rất thấp, mà quan hệ tín dụng dựa rất nặng trên cơ sở niềm tin. Vì vậy rất khó để giải tỏa vấn đề tín dụng.

Bà Phạm Chi Lan

PV: Phải chăng môi trường đầu tư của VN “đang có vấn đề”, cụ thể là giảm sức hấp dẫn. Theo bà, giải pháp nào để có thể tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư?

Bà Phạm Chi Lan: Sức hấp dẫn ở môi trường đầu tư của Việt Nam ở đây là vấn đề của cả nhà đầu tư trong nước lẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Về mặt kinh tế vĩ mô, một là chúng ta đang chịu ảnh hưởng từ tình hình kinh tế vĩ mô liên tục biến động. Trong những năm vừa qua, khi kinh tế vĩ mô bất ổn, cùng với lạm phát cao, đã làm cho các DN luôn lo lắng, bất an. Trong điều kiện vĩ mô bất ổn như vậy, thì các chính sách chạy theo thường là ngắn hạn chứ không phải dài hạn. Chuyện không tiên liệu trước được chính sách là điều các nhà đầu tư rất lo ngại, họ sẽ không thể nào biết được hôm nay thì ưu đãi như thế này, ngày mai lại khác, đây là điều gây ra thắc mắc và trở ngại lớn cho các DN về mặt tính tiêu liệu được của chính sách.

Còn các nhân tố khác về môi trường kinh doanh ở Việt Nam thì hiện nay, Việt Nam đã không còn là thị trường giá rẻ nữa, khi mà giá đầu vào như: đất, nhân công, điện, xăng dầu… tăng lên, làm cho bài toán kinh doanh của DN bị méo mó, lệch lạc đi. DN nào muốn tìm đến với Việt Nam để chào mời điều kiện kinh doanh với giá thành thấp thì sẽ thấy là khó có thể làm được ở Việt Nam.

Lâu nay cứ nói đến hạ tầng yếu kém là các cơ quan liên quan chỉ có một chiều kêu gọi là phải có thêm tiền để đầu tư, lúc nào cũng đặt bài toán là phải đầu tư nhiều hơn nữa để giải quyết sự thiếu hụt. Tại sao không đặt một cách tiếp cận khác như các nước là 1 đồng năng lượng sinh ra 1 đồng tăng trưởng, mà ở Việt Nam cứ phải tốn 2 đồng năng lượng thì mới được 1 đồng tăng trưởng. Nếu giảm dần xuống được chi tiêu về năng lượng thì sẽ giảm được chi tiêu đi. Tôi nghĩ là có nhiều diều chúng ta phải làm, nhất là ở khu vực nhà nước.

PV: Bên cạnh những thành quả đạt được trong việc ổn định lạm phát, tỷ giá… thì số liệu về sản xuất công nghiệp, chỉ số hàng tồn kho, xuất nhập khẩu… cho thấy tình trạng trì trệ của nền kinh tế chưa được dỡ bỏ hoàn toàn. Vậy căn nguyên sâu xa của tình trạng này là gì, thưa bà?

Bà Phạm Chi Lan: Tôi nghĩ căn nguyên sâu xa của nó chính là mô hình tăng trưởng không hợp lý của Việt Nam kéo dài trong những năm vừa qua, nó có thể là đứng trong giai đoạn đầu ngay khi chúng ta chưa có gì trong tay, cần khai thác tài nguyên thô, cần xuất khẩu dầu thô, thậm chí lúc đó không có cách nào khác ngoài khai thác dầu thô thì nền kinh tế không thể lên được, mặc dù có chính sách đổi mới nhưng không có nguồn nào hợp lý để thay thế. Khai thác lao động giá rẻ cũng là 1 thực tế mà chúng ta phải chấp nhận trong giai đoạn đầu, khi mới đổi mới chúng ta đề ra trong chiến lược trọng điểm là sản xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu… Chúng ta đã kéo dài quá lâu mô hình này, thậm chí sau này còn nặng nề hơn. Ví dụ tỷ lệ vốn, sau này chúng ta dựa vào tỷ lệ vốn ngày càng nặng nề hơn, hao phí quá nhiều vào tài lực, cũng như các nguồn lực khác trong quá trình phát triển. Nhưng chúng ta đã quá chậm trong thay đổi mô hình tăng trưởng, gần như năm nào Chính phủ báo cáo trước Quốc hội cũng lo lắng về mô hình tăng trưởng chiều rộng hơn là chiều sâu. Nặng về số lượng thành tích hơn là chất lượng, nhưng mà năm nào cũng nhắc lại nghĩa là chưa khắc phục được nguyên nhân sâu xa này.

Như vậy là muốn thay đổi thì không có cách nào khác là thay đổi mô hình tăng trưởng và thay đổi mô hình tăng trưởng đi liền với tái cấu trúc nền kinh tế cùng 3 trọng tâm mà Nhà nước đề ra ban đầu là hoàn toàn đúng đắn. Chắc chắn quá trình này sẽ là một quá trình đau đớn vì nó sẽ động đến “lợi ích nhóm”. Nhưng phải chấp nhận đau đớn đó để khắc phục, còn nếu không thì tình trạng đó sẽ lặp đi lặp lại và không có cách nào vượt qua được, nếu không sớm khắc phục thì hậu quả của nó sẽ ngày càng nặng nề hơn.

Năm 2011 lạm phát lên rất cao, tốc độ tăng trưởng cũng giảm sút, để lại di chứng cho năm 2012 với nỗ lực kiềm chế lạm phát thì nó được về mặt con số nhưng lại gắn với hệ quả là gây tắc nghẽn mạch kinh tế. Như vậy là hệ quả của mô hình cũ đã để lại di chứng ngày càng nặng nề hơn.

PV: Liệu chúng ta có thể đạt được mức tăng trưởng 6-6,5% như đã đề ra đầu năm không thưa bà?

Bà Phạm Chi Lan: Tôi nghĩ năm nay khó có thể đạt được mục tiêu 6-6,5%, đã có nhiều dự báo đưa ra, kể cả Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính phủ vừa rồi cũng đưa ra mức dự báo 5,3-5,5%, Tôi nghĩ đó là mức hợp lý và chúng ta nên chấp nhận, dù ở kỳ họp Quốc hội giữa năm vừa rồi không điều chỉnh mức tăng trưởng nhưng mà chúng ta nên chấp nhận thực tế như vậy. Đừng buộc mình vào chỉ tiêu để rồi lại phải tăng bằng mọi giá, để rồi lại gây hệ quả lâu dài cho nền kinh tế. Năm nay khi tập trung đi vào điều tiết vĩ mô, kiềm chế lạm phát thì tôi cho là phải chấp nhận mức tăng trưởng thấp và theo tôi, mức tăng trưởng hơn 5% đã là ổn rồi, chứ không nhất thiết phải đạt 6-6,5%.

Toàn Hưng (thực hiện)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 27/04/2024 05:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 27/04/2024 05:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 27/04/2024 05:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 27/04/2024 05:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 27/04/2024 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,233 16,253 16,853
CAD 18,228 18,238 18,938
CHF 27,206 27,226 28,176
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,095 31,105 32,275
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.48 156.63 166.18
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,217 2,337
NZD 14,797 14,807 15,387
SEK - 2,241 2,376
SGD 18,043 18,053 18,853
THB 632.05 672.05 700.05
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 27/04/2024 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 27/04/2024 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 27/04/2024 05:00