Câu chuyện an ninh lương thực

06:30 | 02/09/2023

432 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Biến đổi khí hậu, xung đột và bất ổn chính trị đang tạo ra nguy cơ đối với an ninh lương thực toàn cầu. Trong bối cảnh đó, cộng đồng quốc tế nỗ lực tìm kiếm các giải pháp, đề cao vai trò các quốc gia có nền nông nghiệp bền vững, trong đó có Việt Nam.
Câu chuyện an ninh lương thực
Chính phủ Việt Nam luôn coi bảo đảm an ninh lương thực quốc gia là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển bền vững của đất nước.

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), an ninh lương thực là “mọi người có quyền tiếp cận các thực phẩm một cách an toàn, bổ dưỡng, đầy đủ mọi lúc mọi nơi để duy trì cuộc sống khỏe mạnh và năng động”.

Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, an ninh lương thực luôn là vấn đề hệ trọng đối với mọi quốc gia, nhất là trong bối cảnh thế giới đang hứng chịu tác động của biến đổi khí hậu, xung đột và bất ổn…

Nguyên nhân sâu xa

Xung đột vũ trang là một trong những nguyên nhân chính của mất an ninh lương thực. Xung đột buộc người dân phải rời bỏ quê hương, khiến sản xuất nông nghiệp bị đình trệ, làm đứt gãy chuỗi cung ứng và cản trở các hoạt động cứu trợ nhân đạo. Bất ổn ở khắp các châu lục mà điển hình là các cuộc xung đột ở Afghanistan, Syria, Ukraine, Sudan hay Niger gần đây cho thấy bất ổn chính trị và xung đột vũ trang đã tác động sâu sắc đến an ninh lương thực.

Biến đổi khí hậu là yếu tố quan trọng khác làm mất an ninh lương thực ngày càng trầm trọng. Theo báo cáo khoa học về khí hậu cập nhật của 50 nhà khoa học hàng đầu thế giới được đăng trên tạp chí Earth System Science Data, từ năm 2013 đến năm 2022, Trái đất nóng hơn với mức hơn 0,2 độ C mỗi thập kỷ. Ở Đông Nam Á, với sự ấm lên của các đại dương, việc đánh bắt hải sản sẽ giảm khoảng 20%-30%, kèm theo việc mất đi khoảng 20% đa dạng sinh học vào năm 2050.

Mất an ninh lương thực khiến làn sóng di cư tiếp tục vượt tầm kiểm soát. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hơn 140 triệu người ở khu vực châu Phi cận sa mạc Sahara, Nam Á và Mỹ Latinh có thể bị buộc phải di cư trong nước do tác động của biến đổi khí hậu vào năm 2050.

Dịch bệnh tác động nghiêm trọng đến an ninh lương thực toàn cầu. Theo thống kê mới nhất của Chương trình Lương thực thế giới của Liên hợp quốc (WFP), số người thiếu lương thực ở mức nghiêm trọng trên toàn cầu đã tăng gấp đôi so với trước đại dịch Covid-19, lên 276 triệu người.

Đến cuối năm 2022, dưới tác động tích tụ của các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và chính trị liên tục diễn ra, con số này được cho là đã tăng lên 323 triệu người, với trên 26 quốc gia bị ảnh hưởng, đặc biệt là các nước ở khu vực châu Phi như Ethiopia, Nigeria, Mozambique... Dịch bệnh cũng khiến khoảng 350 triệu trẻ em trong tổng số 1,5 tỷ trẻ em trên toàn cầu đối mặt với suy dinh dưỡng.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, có mối liên hệ chặt chẽ giữa mất an ninh lương thực với bất ổn chính trị. Trong năm 2007-2008, việc giá gạo đột ngột tăng từ 550 USD/tấn lên 760 USD/tấn rồi 1.000 USD/tấn là nguyên nhân bùng phát các cuộc biểu tình phản đối chính phủ ở nhiều nước, từ Ai Cập, đến Burkina Faso và Cameroon… Năm 2011, “Mùa xuân Arab” và các cuộc phản kháng xã hội nổ ra trên khắp lục địa châu Phi vào năm 2021 cũng bắt nguồn từ việc giá lương thực tăng cao.

Dự báo, tình hình hiện tại còn đáng lo ngại hơn khi giá lương thực năm 2023 tiếp tục leo thang, đặc biệt sau khi thỏa thuận ngũ cốc Biển Đen hết hiệu lực. FAO cho biết, từ năm 2019 đến tháng 3/2023, giá lương thực đã tăng 48% do giá năng lượng tăng 85%. Bên cạnh đó, tình trạng nhiều nước hạn chế xuất khẩu lương thực để tăng dự trữ như Trung Quốc, Ấn Độ… tác động mạnh đến an ninh lương thực do chuỗi cung ứng gián đoạn.

Nỗ lực toàn cầu

Tại các diễn đàn đa phương, an ninh lương thực được coi là vấn đề đa chiều, liên ngành, đa ngành và liên quan đến nhiều vấn đề toàn cầu khác. Bảo đảm an ninh lương thực được coi là một trong những tiền đề quan trọng để đạt các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc.

Ngày 23/9/2021, tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về hệ thống lương thực, hơn 150 quốc gia đã cam kết chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm, trong đó ưu tiên khuyến khích sự tham gia rộng lớn hơn của xã hội và bảo đảm sự công bằng, nhất là đối với nông dân, phụ nữ, giới trẻ và các nhóm dân tộc địa phương.

Tại cuộc họp của Ủy ban Nông nghiệp ngày 27-28/3/2023, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã cam kết tăng cường nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng an ninh lương thực, đặc biệt là thách thức đối với các nước kém phát triển nhất (LDC) và các nước đang phát triển nhập khẩu lương thực ròng (NFIDC). Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra Chương trình An ninh lương thực và nông nghiệp toàn cầu (GAFSP) thông qua các hoạt động chính đối với an ninh lương thực toàn cầu.

Tại cuộc họp Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ngày 20/5/2023, Tổng thư ký Antonio Guterres đề xuất bốn bước có thể thực hiện để ngăn chặn xung đột và nạn đói bằng các giải pháp chính trị, ngăn chặn nguy cơ xảy ra xung đột mới, xây dựng nền hòa bình bền vững.

Ngày 19/5, Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) quyết định thành lập liên minh vì an ninh lương thực toàn cầu. Mới đây, Indonesia, nước Chủ tịch ASEAN 2023 đề xuất đưa ra Tuyên bố các nhà lãnh đạo ASEAN về đối phó với nguy cơ khủng hoảng lương thực nhằm tăng cường hợp tác chiến lược trong việc xây dựng cơ chế tăng cường an ninh lương thực, chuỗi cung ứng khu vực và nông nghiệp bền vững. Dự kiến, bản tuyên bố được đưa ra tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 43 vào tháng Chín tới.

Ngày 18/6, Hội nghị Bộ trưởng Nông nghiệp Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) do Ấn Độ chủ trì đã trao đổi sâu về tình hình và giải pháp bảo đảm an ninh lương thực. Việt Nam được Ấn Độ mời tham dự với tư cách khách mời đặc biệt. Điều này thể hiện sự coi trọng của Ấn Độ cũng như các nước G20 với Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp.

Ngày 3/8, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tổ chức Phiên thảo luận mở về “Nạn đói và mất an ninh lương thực do ảnh hưởng của xung đột”. Hội nghị đồng thuận cho rằng cần tăng cường hệ thống cảnh báo sớm về nguy cơ mất an ninh lương thực, củng cố hệ thống lương thực toàn cầu theo hướng bền vững hơn, bảo đảm khả năng tiếp cận lương thực của dân thường trong xung đột.

Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc nhấn mạnh Việt Nam cam kết tiếp tục đóng góp tích cực cho an ninh lương thực toàn cầu, thông qua duy trì xuất khẩu gạo và các nông sản khác ổn định, sẵn sàng cùng cộng đồng quốc tế giải quyết tình trạng mất an ninh lương thực do tác động của xung đột.

Câu chuyện an ninh lương thực
Chuyên gia Việt Nam giúp người dân châu Phi kỹ thuật trồng lúa. (Nguồn: TTXVN)

Dấu ấn Việt Nam

Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam hiện nay trở thành một trong những nước xuất khẩu nông - lâm - thủy sản hàng đầu thế giới với tổng kim ngạch năm 2022 đạt trên 53 tỷ USD, tiếp cận đến 196 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, xuất khẩu gạo trong năm 2023 dự kiến sẽ đạt 7,5 triệu tấn.

Không chỉ bảo đảm an ninh lương thực cho người dân trong nước, với những thành tựu nổi bật trong sản xuất, Việt Nam có điều kiện để đóng góp vào chương trình bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu. Tiêu biểu là mô hình hợp tác ba bên giữa Việt Nam, FAO và nước đối tác ở châu Phi về trồng lúa.

Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia, chia sẻ kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo cho một số nước châu Phi. Việt Nam sẵn sàng cung cấp ổn định lúa gạo, hỗ trợ lương thực cứu đói cho các nước xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, giúp đỡ phát triển trồng cây lương thực ở các vùng khó khăn ở châu Phi, châu Á, theo các chương trình của Liên hợp quốc.

Trong buổi tiếp các đại biểu cấp cao dự Hội nghị toàn cầu lần thứ tư hệ thống lương thực thực phẩm bền vững (SFS) ngày 24/4 tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, Việt Nam xác định nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm, coi bảo đảm an ninh lương thực quốc gia là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển bền vững của đất nước. Đồng thời, với vai trò là một quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới, Việt Nam cũng có đóng góp rất quan trọng vào các nỗ lực chung về các thách thức về an ninh lương thực toàn cầu.

Theo Nhất Phong/ Baoquocte

Khủng hoảng lương thực đè nặng thế giớiKhủng hoảng lương thực đè nặng thế giới
“Mỏ vàng” của kinh tế toàn cầu đang thuộc về ai?“Mỏ vàng” của kinh tế toàn cầu đang thuộc về ai?

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 12:00