Câu chuyện an ninh lương thực

06:30 | 02/09/2023

434 lượt xem
|
Biến đổi khí hậu, xung đột và bất ổn chính trị đang tạo ra nguy cơ đối với an ninh lương thực toàn cầu. Trong bối cảnh đó, cộng đồng quốc tế nỗ lực tìm kiếm các giải pháp, đề cao vai trò các quốc gia có nền nông nghiệp bền vững, trong đó có Việt Nam.
Câu chuyện an ninh lương thực
Chính phủ Việt Nam luôn coi bảo đảm an ninh lương thực quốc gia là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển bền vững của đất nước.

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), an ninh lương thực là “mọi người có quyền tiếp cận các thực phẩm một cách an toàn, bổ dưỡng, đầy đủ mọi lúc mọi nơi để duy trì cuộc sống khỏe mạnh và năng động”.

Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, an ninh lương thực luôn là vấn đề hệ trọng đối với mọi quốc gia, nhất là trong bối cảnh thế giới đang hứng chịu tác động của biến đổi khí hậu, xung đột và bất ổn…

Nguyên nhân sâu xa

Xung đột vũ trang là một trong những nguyên nhân chính của mất an ninh lương thực. Xung đột buộc người dân phải rời bỏ quê hương, khiến sản xuất nông nghiệp bị đình trệ, làm đứt gãy chuỗi cung ứng và cản trở các hoạt động cứu trợ nhân đạo. Bất ổn ở khắp các châu lục mà điển hình là các cuộc xung đột ở Afghanistan, Syria, Ukraine, Sudan hay Niger gần đây cho thấy bất ổn chính trị và xung đột vũ trang đã tác động sâu sắc đến an ninh lương thực.

Biến đổi khí hậu là yếu tố quan trọng khác làm mất an ninh lương thực ngày càng trầm trọng. Theo báo cáo khoa học về khí hậu cập nhật của 50 nhà khoa học hàng đầu thế giới được đăng trên tạp chí Earth System Science Data, từ năm 2013 đến năm 2022, Trái đất nóng hơn với mức hơn 0,2 độ C mỗi thập kỷ. Ở Đông Nam Á, với sự ấm lên của các đại dương, việc đánh bắt hải sản sẽ giảm khoảng 20%-30%, kèm theo việc mất đi khoảng 20% đa dạng sinh học vào năm 2050.

Mất an ninh lương thực khiến làn sóng di cư tiếp tục vượt tầm kiểm soát. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hơn 140 triệu người ở khu vực châu Phi cận sa mạc Sahara, Nam Á và Mỹ Latinh có thể bị buộc phải di cư trong nước do tác động của biến đổi khí hậu vào năm 2050.

Dịch bệnh tác động nghiêm trọng đến an ninh lương thực toàn cầu. Theo thống kê mới nhất của Chương trình Lương thực thế giới của Liên hợp quốc (WFP), số người thiếu lương thực ở mức nghiêm trọng trên toàn cầu đã tăng gấp đôi so với trước đại dịch Covid-19, lên 276 triệu người.

Đến cuối năm 2022, dưới tác động tích tụ của các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và chính trị liên tục diễn ra, con số này được cho là đã tăng lên 323 triệu người, với trên 26 quốc gia bị ảnh hưởng, đặc biệt là các nước ở khu vực châu Phi như Ethiopia, Nigeria, Mozambique... Dịch bệnh cũng khiến khoảng 350 triệu trẻ em trong tổng số 1,5 tỷ trẻ em trên toàn cầu đối mặt với suy dinh dưỡng.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, có mối liên hệ chặt chẽ giữa mất an ninh lương thực với bất ổn chính trị. Trong năm 2007-2008, việc giá gạo đột ngột tăng từ 550 USD/tấn lên 760 USD/tấn rồi 1.000 USD/tấn là nguyên nhân bùng phát các cuộc biểu tình phản đối chính phủ ở nhiều nước, từ Ai Cập, đến Burkina Faso và Cameroon… Năm 2011, “Mùa xuân Arab” và các cuộc phản kháng xã hội nổ ra trên khắp lục địa châu Phi vào năm 2021 cũng bắt nguồn từ việc giá lương thực tăng cao.

Dự báo, tình hình hiện tại còn đáng lo ngại hơn khi giá lương thực năm 2023 tiếp tục leo thang, đặc biệt sau khi thỏa thuận ngũ cốc Biển Đen hết hiệu lực. FAO cho biết, từ năm 2019 đến tháng 3/2023, giá lương thực đã tăng 48% do giá năng lượng tăng 85%. Bên cạnh đó, tình trạng nhiều nước hạn chế xuất khẩu lương thực để tăng dự trữ như Trung Quốc, Ấn Độ… tác động mạnh đến an ninh lương thực do chuỗi cung ứng gián đoạn.

Nỗ lực toàn cầu

Tại các diễn đàn đa phương, an ninh lương thực được coi là vấn đề đa chiều, liên ngành, đa ngành và liên quan đến nhiều vấn đề toàn cầu khác. Bảo đảm an ninh lương thực được coi là một trong những tiền đề quan trọng để đạt các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc.

Ngày 23/9/2021, tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về hệ thống lương thực, hơn 150 quốc gia đã cam kết chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm, trong đó ưu tiên khuyến khích sự tham gia rộng lớn hơn của xã hội và bảo đảm sự công bằng, nhất là đối với nông dân, phụ nữ, giới trẻ và các nhóm dân tộc địa phương.

Tại cuộc họp của Ủy ban Nông nghiệp ngày 27-28/3/2023, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã cam kết tăng cường nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng an ninh lương thực, đặc biệt là thách thức đối với các nước kém phát triển nhất (LDC) và các nước đang phát triển nhập khẩu lương thực ròng (NFIDC). Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra Chương trình An ninh lương thực và nông nghiệp toàn cầu (GAFSP) thông qua các hoạt động chính đối với an ninh lương thực toàn cầu.

Tại cuộc họp Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ngày 20/5/2023, Tổng thư ký Antonio Guterres đề xuất bốn bước có thể thực hiện để ngăn chặn xung đột và nạn đói bằng các giải pháp chính trị, ngăn chặn nguy cơ xảy ra xung đột mới, xây dựng nền hòa bình bền vững.

Ngày 19/5, Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) quyết định thành lập liên minh vì an ninh lương thực toàn cầu. Mới đây, Indonesia, nước Chủ tịch ASEAN 2023 đề xuất đưa ra Tuyên bố các nhà lãnh đạo ASEAN về đối phó với nguy cơ khủng hoảng lương thực nhằm tăng cường hợp tác chiến lược trong việc xây dựng cơ chế tăng cường an ninh lương thực, chuỗi cung ứng khu vực và nông nghiệp bền vững. Dự kiến, bản tuyên bố được đưa ra tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 43 vào tháng Chín tới.

Ngày 18/6, Hội nghị Bộ trưởng Nông nghiệp Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) do Ấn Độ chủ trì đã trao đổi sâu về tình hình và giải pháp bảo đảm an ninh lương thực. Việt Nam được Ấn Độ mời tham dự với tư cách khách mời đặc biệt. Điều này thể hiện sự coi trọng của Ấn Độ cũng như các nước G20 với Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp.

Ngày 3/8, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tổ chức Phiên thảo luận mở về “Nạn đói và mất an ninh lương thực do ảnh hưởng của xung đột”. Hội nghị đồng thuận cho rằng cần tăng cường hệ thống cảnh báo sớm về nguy cơ mất an ninh lương thực, củng cố hệ thống lương thực toàn cầu theo hướng bền vững hơn, bảo đảm khả năng tiếp cận lương thực của dân thường trong xung đột.

Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc nhấn mạnh Việt Nam cam kết tiếp tục đóng góp tích cực cho an ninh lương thực toàn cầu, thông qua duy trì xuất khẩu gạo và các nông sản khác ổn định, sẵn sàng cùng cộng đồng quốc tế giải quyết tình trạng mất an ninh lương thực do tác động của xung đột.

Câu chuyện an ninh lương thực
Chuyên gia Việt Nam giúp người dân châu Phi kỹ thuật trồng lúa. (Nguồn: TTXVN)

Dấu ấn Việt Nam

Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam hiện nay trở thành một trong những nước xuất khẩu nông - lâm - thủy sản hàng đầu thế giới với tổng kim ngạch năm 2022 đạt trên 53 tỷ USD, tiếp cận đến 196 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, xuất khẩu gạo trong năm 2023 dự kiến sẽ đạt 7,5 triệu tấn.

Không chỉ bảo đảm an ninh lương thực cho người dân trong nước, với những thành tựu nổi bật trong sản xuất, Việt Nam có điều kiện để đóng góp vào chương trình bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu. Tiêu biểu là mô hình hợp tác ba bên giữa Việt Nam, FAO và nước đối tác ở châu Phi về trồng lúa.

Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia, chia sẻ kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo cho một số nước châu Phi. Việt Nam sẵn sàng cung cấp ổn định lúa gạo, hỗ trợ lương thực cứu đói cho các nước xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, giúp đỡ phát triển trồng cây lương thực ở các vùng khó khăn ở châu Phi, châu Á, theo các chương trình của Liên hợp quốc.

Trong buổi tiếp các đại biểu cấp cao dự Hội nghị toàn cầu lần thứ tư hệ thống lương thực thực phẩm bền vững (SFS) ngày 24/4 tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, Việt Nam xác định nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm, coi bảo đảm an ninh lương thực quốc gia là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển bền vững của đất nước. Đồng thời, với vai trò là một quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới, Việt Nam cũng có đóng góp rất quan trọng vào các nỗ lực chung về các thách thức về an ninh lương thực toàn cầu.

Theo Nhất Phong/ Baoquocte

Khủng hoảng lương thực đè nặng thế giớiKhủng hoảng lương thực đè nặng thế giới
“Mỏ vàng” của kinh tế toàn cầu đang thuộc về ai?“Mỏ vàng” của kinh tế toàn cầu đang thuộc về ai?

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 151,700
Hà Nội - PNJ 148,700 151,700
Đà Nẵng - PNJ 148,700 151,700
Miền Tây - PNJ 148,700 151,700
Tây Nguyên - PNJ 148,700 151,700
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 151,700
Cập nhật: 26/11/2025 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 15,290
Miếng SJC Nghệ An 15,090 15,290
Miếng SJC Thái Bình 15,090 15,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 15,250
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
Trang sức 99.9 14,540 15,140
Trang sức 99.99 14,550 15,150
Cập nhật: 26/11/2025 08:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 15,292
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 15,293
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,505
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,506
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,465 1,495
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,352 14,802
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,786 112,286
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,432 10,182
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,854 91,354
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,817 87,317
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,998 62,498
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cập nhật: 26/11/2025 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16499 16767 17345
CAD 18147 18423 19038
CHF 31918 32299 32941
CNY 0 3470 3830
EUR 29777 30049 31077
GBP 33826 34215 35141
HKD 0 3260 3462
JPY 161 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14471 15058
SGD 19703 19984 20508
THB 731 794 848
USD (1,2) 26103 0 0
USD (5,10,20) 26145 0 0
USD (50,100) 26173 26193 26403
Cập nhật: 26/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,014 30,038 31,175
JPY 165.61 165.91 172.86
GBP 34,215 34,308 35,106
AUD 16,780 16,841 17,286
CAD 18,385 18,444 18,966
CHF 32,308 32,408 33,078
SGD 19,858 19,920 20,539
CNY - 3,671 3,768
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 780.33 789.97 841.1
NZD 14,485 14,619 14,967
SEK - 2,718 2,797
DKK - 4,014 4,130
NOK - 2,537 2,611
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,970.93 - 6,697.25
TWD 759.77 - 914.16
SAR - 6,932.04 7,256.31
KWD - 83,806 88,590
Cập nhật: 26/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 26/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26079 26079 26403
AUD 16682 16782 17705
CAD 18331 18431 19444
CHF 32176 32206 33792
CNY 0 3685.7 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29965 29995 31718
GBP 34129 34179 35940
HKD 0 3390 0
JPY 165.27 165.77 176.29
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14583 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19867 19997 20725
THB 0 760.7 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 26/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,403
USD20 26,198 26,248 26,403
USD1 26,198 26,248 26,403
AUD 16,726 16,826 17,935
EUR 30,113 30,113 31,227
CAD 18,278 18,378 19,689
SGD 19,930 20,080 20,646
JPY 165.69 167.19 171.76
GBP 34,203 34,353 35,126
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,567 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 08:00