Bất cập trong quy định thuế VAT đối với ngành phân bón

08:46 | 06/11/2024

6,266 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau gần 10 năm thực hiện Luật số 71/2014/QH13 (Luật số 71) sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015) quy định phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ sản xuất nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng (VAT) đã bộc lộ nhiều bất cập, khiến ngành phân bón gặp khó khăn, kìm hãm sự phát triển.
Sản xuất phân đạm Urê tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đạm Ninh Bình (Tập đoàn Hóa chất Việt Nam).
Sản xuất phân đạm Urê tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đạm Ninh Bình (Tập đoàn Hóa chất Việt Nam).

Luật Thuế Giá trị gia tăng năm 2008 quy định, phân bón là mặt hàng chịu thuế VAT 5%. Tuy nhiên, kể từ khi áp dụng Luật số 71, phân bón thuộc đối tượng không phải chịu khoản thuế này. Tưởng chừng ưu đãi đối với người nông dân và doanh nghiệp sản xuất, nhưng thực chất quy định này lại nảy sinh những khó khăn, do doanh nghiệp không được khấu trừ thuế VAT đã nộp ở đầu vào, khiến chi phí sản xuất tăng cao,...

Cần thiết áp thuế VAT

Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng (huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội) Nguyễn Tuấn Hồng cho biết, từ khi áp dụng Luật số 71 đến nay, giá phân bón tăng đến 30% so với trước, khiến doanh nghiệp sản xuất không được hoàn thuế VAT, họ phải cộng tiền đó vào giá thành mặt hàng bán ra. Tình hình hiện tại càng trở nên khó khăn khi nguyên liệu đầu vào khan hiếm, ảnh hưởng của biến động, xung đột trên thế giới sau chiến tranh Nga-Ukraine, giá phân bón tiếp tục tăng. “Việc đưa phân bón ra khỏi danh mục không chịu thuế VAT không những không đem lại lợi ích mà còn rất bất cập, làm tăng giá phân bón. Trong khi phân bón là nguyên liệu đầu vào đóng vai trò quan trọng đối với người nông dân trong mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp”, ông Hồng nhấn mạnh.

Theo dẫn chứng của ông Hồng, trước năm 2014, chi phí phân bón dành cho canh tác trên 1 sào trồng rau chỉ khoảng 300 nghìn đồng, chiếm khoảng 1/3 trong tổng chi phí đầu vào. Từ sau năm 2014, giá phân bón tăng cao, khiến chi phí đối với phân bón đội lên gần 500 nghìn đồng. Điều này đồng nghĩa với việc chi phí phân bón tăng 30-35% và “ăn mòn” lợi nhuận của bà con nông dân. “Nếu Nhà nước không có cơ chế, chính sách điều chỉnh phù hợp, trong khi giá phân bón được dự báo tiếp tục tăng trong thời gian tới, sẽ khiến bà con nông dân bị đuối sức, nhất là các hộ sản xuất nhỏ lẻ”, ông Hồng lo lắng.

Nhớ lại những thời điểm giá phân bón chịu “ảnh hưởng kép” của biến động thế giới năm 2022, ông Hồng cho biết, nhiều hộ nông dân chuyên canh tác rau ở thôn Bắc Hồng đã bỏ ruộng, tạm dừng sản xuất, chuyển sang đi làm thuê mướn ở nơi khác, vì giá bán rau không đủ bù chi phí đầu vào, nhất là tiền mua phân bón, trong khi mặt hàng nông sản, đầu ra của sản xuất nông nghiệp hết sức bấp bênh.

Một điểm bất cập khác, từ sau năm 2014, các doanh nghiệp phân bón do phải tiết kiệm chi phí nên cũng cắt giảm các chương trình hỗ trợ bà con nông dân về giá bán, hay các hoạt động khảo nghiệm cây con giống. Do đó các hộ sản xuất nông nghiệp càng bị thiệt thòi hơn so với trước. Vì vậy, đại diện ý kiến của các hộ trong hợp tác xã, ông Hồng đề xuất nên đưa phân bón quay trở lại chịu thuế VAT 5% để tạo thuận lợi hơn cho sản xuất nông nghiệp. Khi giá phân bón giảm, lợi nhuận của người nông dân, người sản xuất nông nghiệp sẽ tăng lên. Những hộ sản xuất lớn sẽ nhìn thấy hiệu quả rõ rệt, giúp người làm nông nghiệp yên tâm hơn trong đầu tư cho sản xuất.

Sản phẩm Urê của Công ty cổ phần Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc trước khi đưa ra thị trường.
Sản phẩm Urê của Công ty cổ phần Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc trước khi đưa ra thị trường.

Tương tự, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thực phẩm G.C (GC Food) Nguyễn Văn Thứ cho rằng, cần đưa phân bón trở lại chịu thuế VAT 5% để hỗ trợ bà con nông dân về giá. Đồng thời, các sản phẩm liên quan đến thuế VAT trong sản xuất nông nghiệp cần được Nhà nước, Bộ Tài chính tính toán kỹ để hài hòa, bảo đảm lợi nhuận cho nông dân cũng như người sản xuất nông nghiệp nói chung, tránh tình trạng sản xuất có lãi nhưng do chính sách thuế bất cập lại trở thành thua lỗ. “Chính sách phân bón không chịu thuế VAT áp dụng trong thời gian qua là một trong những yếu tố làm tăng giá phân bón, gây thiệt thòi cho những người sản xuất nông nghiệp. Vào những thời điểm giá phân bón bị tác động từ những yếu tố kinh tế-chính trị thế giới, ngành sản xuất nông nghiệp càng bất lợi, làm suy giảm lợi nhuận doanh nghiệp”, ông Thứ khẳng định.

Thúc đẩy đổi mới công nghệ

Đại diện một công ty sản xuất phân bón khu vực miền bắc khẳng định: Kể từ khi áp dụng Luật số 71 đến nay, các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước bị thiệt hại rất lớn. Các doanh nghiệp phân bón không được khấu trừ, hoàn thuế VAT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất, cũng như đầu tư mở rộng sản xuất, trang bị công nghệ, máy móc thiết bị mới. Tiếp đến, với khoản thuế VAT đầu vào không được khấu trừ, doanh nghiệp sản xuất phân bón buộc phải tính vào chi phí sản xuất, làm cho giá thành sản phẩm tăng, dồn ép doanh nghiệp tăng giá bán sản phẩm, mức tiêu thụ bị giảm sút dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp.

Đại diện Bộ Công thương phân tích, trong khoảng thời gian 10 năm áp dụng Luật số 71, trung bình mỗi năm lực lượng quản lý thị trường phát hiện và xử lý khoảng 3.000 vụ nhập lậu phân bón, sản xuất phân bón giả. Theo tính toán, trung bình phân bón giả gây thiệt hại khoảng 200 USD/ha, khiến mỗi năm ngành nông nghiệp thiệt hại tới 2,6 tỷ USD, đặc biệt nguy hại khi nông sản Việt đang đặt mục tiêu xuất khẩu sang các thị trường lớn trên thế giới. Trong bối cảnh đó, bài toán thuế VAT cho mặt hàng phân bón ngày càng trở nên cấp thiết, bởi đây là một trong những yếu tố tác động lớn tới ngành sản xuất nội địa, góp phần tạo sức sống cho nền nông nghiệp. Theo ý kiến đánh giá của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), cùng với các yếu tố về giống, thủy lợi, cơ giới hóa nông nghiệp, phân bón đóng góp hơn 40% cho việc nâng cao năng suất cây trồng. Do đó, chính sách bất cập về thuế VAT phân bón kéo dài gần 10 năm qua cần sớm thay đổi.

Kể từ khi phân bón “bị” miễn thuế VAT đến nay, số liệu của Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho thấy, tổng sản lượng nhập khẩu dao động từ 3,3 đến 5,6 triệu tấn; kim ngạch đạt 952 triệu đến 1,6 tỷ USD, trong khi tổng công suất sản xuất nội địa ngày càng bị thu hẹp, từ 3,5 triệu tấn/năm (trước năm 2014) xuống còn 380 nghìn tấn/năm (từ năm 2015). Tiến sĩ Phùng Hà, Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho biết, theo đánh giá của dự án tăng cường năng lực cạnh tranh khu vực tư nhân Việt Nam, về phía Nhà nước, nếu áp dụng thuế VAT 5% đối với phân bón, sẽ tăng thu ngân sách thêm 1.541 tỷ đồng, do thu thuế VAT đầu ra của phân bón 6.225 tỷ đồng và khấu trừ thuế đầu vào 4.713 tỷ đồng.

Trao đổi về chính sách thuế VAT phân bón, chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy cho rằng, nếu không áp thuế 5% đối với phân bón, doanh nghiệp sẽ phải “chịu đau” thay cho Nhà nước và nông dân. Tình trạng nhập khẩu phân bón sẽ tiếp tục gia tăng và có nguy cơ chiếm lĩnh thị trường, đẩy ngành sản xuất phân bón trong nước đến chỗ phải thu hẹp sản xuất. Hệ lụy kéo theo là doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, người lao động mất việc, nguồn thu ngân sách suy giảm, thiếu các sản phẩm phân bón nội địa đạt chất lượng. Thực tế này vô hình trung đã đi ngược lại với chủ trương thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.

Nếu áp thuế VAT 5% đối với phân bón, có ý kiến cho rằng người nông dân sẽ phải chịu thiệt thòi. Nhưng thực tế, nếu chỉ so sánh về giá bán thì đây chỉ là một khía cạnh nhỏ của vấn đề lớn. Thuế VAT là khoản thu từ người tiêu dùng cuối cùng, cho nên nông dân cũng cần sự bình đẳng đối với các đối tượng khác. Nông sản nằm trong chuỗi sản xuất nông nghiệp, có sản phẩm đầu ra nên về quy định phải chịu thuế.

Theo nhận định của các chuyên gia nông nghiệp, lợi ích dễ nhận thấy từ việc áp thuế VAT 5% với phân bón là giúp Nhà nước quản lý tốt hơn ngành hàng này, hài hòa lợi ích và nghĩa vụ với chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm sự công bằng của pháp luật. Doanh nghiệp sản xuất được khấu trừ chi phí đầu vào, giảm bớt được gánh nặng, mới tạo động lực thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và hướng tới xuất khẩu,...

Theo Báo Nhân Dân

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,500 118,500
AVPL/SJC HCM 115,500 118,500
AVPL/SJC ĐN 115,500 118,500
Nguyên liệu 9999 - HN 10,820 11,150
Nguyên liệu 999 - HN 10,810 11,140
Cập nhật: 19/05/2025 01:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 114.000
TPHCM - SJC 115.500 118.500
Hà Nội - PNJ 111.000 114.000
Hà Nội - SJC 115.500 118.500
Đà Nẵng - PNJ 111.000 114.000
Đà Nẵng - SJC 115.500 118.500
Miền Tây - PNJ 111.000 114.000
Miền Tây - SJC 115.500 118.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 118.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 118.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.000 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.890 113.390
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.190 112.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.970 112.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.780 85.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.050 66.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.870 47.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.570 104.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.890 69.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.430 73.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.830 77.330
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.210 42.710
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.110 37.610
Cập nhật: 19/05/2025 01:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,960 11,410
Trang sức 99.9 10,950 11,400
NL 99.99 10,520
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,170 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,170 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,170 11,470
Miếng SJC Thái Bình 11,550 11,850
Miếng SJC Nghệ An 11,550 11,850
Miếng SJC Hà Nội 11,550 11,850
Cập nhật: 19/05/2025 01:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16064 16331 16925
CAD 18030 18305 18929
CHF 30295 30670 31327
CNY 0 3358 3600
EUR 28310 28576 29618
GBP 33605 33993 34949
HKD 0 3186 3390
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 14935 15529
SGD 19399 19679 20218
THB 690 753 812
USD (1,2) 25660 0 0
USD (5,10,20) 25698 0 0
USD (50,100) 25726 25760 26115
Cập nhật: 19/05/2025 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,750 25,750 26,110
USD(1-2-5) 24,720 - -
USD(10-20) 24,720 - -
GBP 34,085 34,177 35,100
HKD 3,260 3,270 3,369
CHF 30,618 30,713 31,573
JPY 175.08 175.4 183.22
THB 745.58 754.78 807.58
AUD 16,419 16,478 16,929
CAD 18,336 18,395 18,897
SGD 19,673 19,734 20,360
SEK - 2,622 2,715
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,831 3,963
NOK - 2,450 2,539
CNY - 3,563 3,660
RUB - - -
NZD 14,983 15,122 15,564
KRW 17.32 18.06 19.4
EUR 28,618 28,641 29,861
TWD 778.43 - 942.46
MYR 5,675.47 - 6,404.03
SAR - 6,797.05 7,154.54
KWD - 82,154 87,358
XAU - - -
Cập nhật: 19/05/2025 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,750 25,760 26,100
EUR 28,471 28,585 29,687
GBP 33,905 34,041 35,012
HKD 3,256 3,269 3,375
CHF 30,547 30,670 31,579
JPY 174.44 175.14 182.42
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,657 19,736 20,276
THB 762 765 799
CAD 18,256 18,329 18,839
NZD 14,961 15,467
KRW 17.73 19.55
Cập nhật: 19/05/2025 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25740 25740 26100
AUD 16288 16388 16956
CAD 18213 18313 18867
CHF 30579 30609 31494
CNY 0 3561.9 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28660 28760 29532
GBP 33942 33992 35103
HKD 0 3270 0
JPY 174.6 175.6 182.14
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15101 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19585 19715 20445
THB 0 724.3 0
TWD 0 845 0
XAU 11630000 11630000 11870000
XBJ 10500000 10500000 11870000
Cập nhật: 19/05/2025 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,730 25,780 26,130
USD20 25,730 25,780 26,130
USD1 25,730 25,780 26,130
AUD 16,338 16,488 17,563
EUR 28,711 28,861 30,047
CAD 18,158 18,258 19,581
SGD 19,660 19,810 20,292
JPY 175.2 176.7 181.46
GBP 34,052 34,202 35,002
XAU 11,568,000 0 11,872,000
CNY 0 3,445 0
THB 0 759 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 19/05/2025 01:45