Bất cập trong quy định thuế VAT đối với ngành phân bón

08:46 | 06/11/2024

6,314 lượt xem
|
Sau gần 10 năm thực hiện Luật số 71/2014/QH13 (Luật số 71) sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015) quy định phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ sản xuất nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng (VAT) đã bộc lộ nhiều bất cập, khiến ngành phân bón gặp khó khăn, kìm hãm sự phát triển.
Sản xuất phân đạm Urê tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đạm Ninh Bình (Tập đoàn Hóa chất Việt Nam).
Sản xuất phân đạm Urê tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đạm Ninh Bình (Tập đoàn Hóa chất Việt Nam).

Luật Thuế Giá trị gia tăng năm 2008 quy định, phân bón là mặt hàng chịu thuế VAT 5%. Tuy nhiên, kể từ khi áp dụng Luật số 71, phân bón thuộc đối tượng không phải chịu khoản thuế này. Tưởng chừng ưu đãi đối với người nông dân và doanh nghiệp sản xuất, nhưng thực chất quy định này lại nảy sinh những khó khăn, do doanh nghiệp không được khấu trừ thuế VAT đã nộp ở đầu vào, khiến chi phí sản xuất tăng cao,...

Cần thiết áp thuế VAT

Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng (huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội) Nguyễn Tuấn Hồng cho biết, từ khi áp dụng Luật số 71 đến nay, giá phân bón tăng đến 30% so với trước, khiến doanh nghiệp sản xuất không được hoàn thuế VAT, họ phải cộng tiền đó vào giá thành mặt hàng bán ra. Tình hình hiện tại càng trở nên khó khăn khi nguyên liệu đầu vào khan hiếm, ảnh hưởng của biến động, xung đột trên thế giới sau chiến tranh Nga-Ukraine, giá phân bón tiếp tục tăng. “Việc đưa phân bón ra khỏi danh mục không chịu thuế VAT không những không đem lại lợi ích mà còn rất bất cập, làm tăng giá phân bón. Trong khi phân bón là nguyên liệu đầu vào đóng vai trò quan trọng đối với người nông dân trong mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp”, ông Hồng nhấn mạnh.

Theo dẫn chứng của ông Hồng, trước năm 2014, chi phí phân bón dành cho canh tác trên 1 sào trồng rau chỉ khoảng 300 nghìn đồng, chiếm khoảng 1/3 trong tổng chi phí đầu vào. Từ sau năm 2014, giá phân bón tăng cao, khiến chi phí đối với phân bón đội lên gần 500 nghìn đồng. Điều này đồng nghĩa với việc chi phí phân bón tăng 30-35% và “ăn mòn” lợi nhuận của bà con nông dân. “Nếu Nhà nước không có cơ chế, chính sách điều chỉnh phù hợp, trong khi giá phân bón được dự báo tiếp tục tăng trong thời gian tới, sẽ khiến bà con nông dân bị đuối sức, nhất là các hộ sản xuất nhỏ lẻ”, ông Hồng lo lắng.

Nhớ lại những thời điểm giá phân bón chịu “ảnh hưởng kép” của biến động thế giới năm 2022, ông Hồng cho biết, nhiều hộ nông dân chuyên canh tác rau ở thôn Bắc Hồng đã bỏ ruộng, tạm dừng sản xuất, chuyển sang đi làm thuê mướn ở nơi khác, vì giá bán rau không đủ bù chi phí đầu vào, nhất là tiền mua phân bón, trong khi mặt hàng nông sản, đầu ra của sản xuất nông nghiệp hết sức bấp bênh.

Một điểm bất cập khác, từ sau năm 2014, các doanh nghiệp phân bón do phải tiết kiệm chi phí nên cũng cắt giảm các chương trình hỗ trợ bà con nông dân về giá bán, hay các hoạt động khảo nghiệm cây con giống. Do đó các hộ sản xuất nông nghiệp càng bị thiệt thòi hơn so với trước. Vì vậy, đại diện ý kiến của các hộ trong hợp tác xã, ông Hồng đề xuất nên đưa phân bón quay trở lại chịu thuế VAT 5% để tạo thuận lợi hơn cho sản xuất nông nghiệp. Khi giá phân bón giảm, lợi nhuận của người nông dân, người sản xuất nông nghiệp sẽ tăng lên. Những hộ sản xuất lớn sẽ nhìn thấy hiệu quả rõ rệt, giúp người làm nông nghiệp yên tâm hơn trong đầu tư cho sản xuất.

Sản phẩm Urê của Công ty cổ phần Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc trước khi đưa ra thị trường.
Sản phẩm Urê của Công ty cổ phần Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc trước khi đưa ra thị trường.

Tương tự, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thực phẩm G.C (GC Food) Nguyễn Văn Thứ cho rằng, cần đưa phân bón trở lại chịu thuế VAT 5% để hỗ trợ bà con nông dân về giá. Đồng thời, các sản phẩm liên quan đến thuế VAT trong sản xuất nông nghiệp cần được Nhà nước, Bộ Tài chính tính toán kỹ để hài hòa, bảo đảm lợi nhuận cho nông dân cũng như người sản xuất nông nghiệp nói chung, tránh tình trạng sản xuất có lãi nhưng do chính sách thuế bất cập lại trở thành thua lỗ. “Chính sách phân bón không chịu thuế VAT áp dụng trong thời gian qua là một trong những yếu tố làm tăng giá phân bón, gây thiệt thòi cho những người sản xuất nông nghiệp. Vào những thời điểm giá phân bón bị tác động từ những yếu tố kinh tế-chính trị thế giới, ngành sản xuất nông nghiệp càng bất lợi, làm suy giảm lợi nhuận doanh nghiệp”, ông Thứ khẳng định.

Thúc đẩy đổi mới công nghệ

Đại diện một công ty sản xuất phân bón khu vực miền bắc khẳng định: Kể từ khi áp dụng Luật số 71 đến nay, các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước bị thiệt hại rất lớn. Các doanh nghiệp phân bón không được khấu trừ, hoàn thuế VAT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất, cũng như đầu tư mở rộng sản xuất, trang bị công nghệ, máy móc thiết bị mới. Tiếp đến, với khoản thuế VAT đầu vào không được khấu trừ, doanh nghiệp sản xuất phân bón buộc phải tính vào chi phí sản xuất, làm cho giá thành sản phẩm tăng, dồn ép doanh nghiệp tăng giá bán sản phẩm, mức tiêu thụ bị giảm sút dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp.

Đại diện Bộ Công thương phân tích, trong khoảng thời gian 10 năm áp dụng Luật số 71, trung bình mỗi năm lực lượng quản lý thị trường phát hiện và xử lý khoảng 3.000 vụ nhập lậu phân bón, sản xuất phân bón giả. Theo tính toán, trung bình phân bón giả gây thiệt hại khoảng 200 USD/ha, khiến mỗi năm ngành nông nghiệp thiệt hại tới 2,6 tỷ USD, đặc biệt nguy hại khi nông sản Việt đang đặt mục tiêu xuất khẩu sang các thị trường lớn trên thế giới. Trong bối cảnh đó, bài toán thuế VAT cho mặt hàng phân bón ngày càng trở nên cấp thiết, bởi đây là một trong những yếu tố tác động lớn tới ngành sản xuất nội địa, góp phần tạo sức sống cho nền nông nghiệp. Theo ý kiến đánh giá của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), cùng với các yếu tố về giống, thủy lợi, cơ giới hóa nông nghiệp, phân bón đóng góp hơn 40% cho việc nâng cao năng suất cây trồng. Do đó, chính sách bất cập về thuế VAT phân bón kéo dài gần 10 năm qua cần sớm thay đổi.

Kể từ khi phân bón “bị” miễn thuế VAT đến nay, số liệu của Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho thấy, tổng sản lượng nhập khẩu dao động từ 3,3 đến 5,6 triệu tấn; kim ngạch đạt 952 triệu đến 1,6 tỷ USD, trong khi tổng công suất sản xuất nội địa ngày càng bị thu hẹp, từ 3,5 triệu tấn/năm (trước năm 2014) xuống còn 380 nghìn tấn/năm (từ năm 2015). Tiến sĩ Phùng Hà, Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho biết, theo đánh giá của dự án tăng cường năng lực cạnh tranh khu vực tư nhân Việt Nam, về phía Nhà nước, nếu áp dụng thuế VAT 5% đối với phân bón, sẽ tăng thu ngân sách thêm 1.541 tỷ đồng, do thu thuế VAT đầu ra của phân bón 6.225 tỷ đồng và khấu trừ thuế đầu vào 4.713 tỷ đồng.

Trao đổi về chính sách thuế VAT phân bón, chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy cho rằng, nếu không áp thuế 5% đối với phân bón, doanh nghiệp sẽ phải “chịu đau” thay cho Nhà nước và nông dân. Tình trạng nhập khẩu phân bón sẽ tiếp tục gia tăng và có nguy cơ chiếm lĩnh thị trường, đẩy ngành sản xuất phân bón trong nước đến chỗ phải thu hẹp sản xuất. Hệ lụy kéo theo là doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, người lao động mất việc, nguồn thu ngân sách suy giảm, thiếu các sản phẩm phân bón nội địa đạt chất lượng. Thực tế này vô hình trung đã đi ngược lại với chủ trương thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.

Nếu áp thuế VAT 5% đối với phân bón, có ý kiến cho rằng người nông dân sẽ phải chịu thiệt thòi. Nhưng thực tế, nếu chỉ so sánh về giá bán thì đây chỉ là một khía cạnh nhỏ của vấn đề lớn. Thuế VAT là khoản thu từ người tiêu dùng cuối cùng, cho nên nông dân cũng cần sự bình đẳng đối với các đối tượng khác. Nông sản nằm trong chuỗi sản xuất nông nghiệp, có sản phẩm đầu ra nên về quy định phải chịu thuế.

Theo nhận định của các chuyên gia nông nghiệp, lợi ích dễ nhận thấy từ việc áp thuế VAT 5% với phân bón là giúp Nhà nước quản lý tốt hơn ngành hàng này, hài hòa lợi ích và nghĩa vụ với chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm sự công bằng của pháp luật. Doanh nghiệp sản xuất được khấu trừ chi phí đầu vào, giảm bớt được gánh nặng, mới tạo động lực thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và hướng tới xuất khẩu,...

Theo Báo Nhân Dân

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Hà Nội - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Đà Nẵng - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Miền Tây - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Tây Nguyên - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
Miếng SJC Nghệ An 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
Miếng SJC Thái Bình 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
NL 99.99 14,230 ▲170K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230 ▲170K
Trang sức 99.9 14,540 ▲250K 15,140 ▲250K
Trang sức 99.99 14,550 ▲250K 15,150 ▲250K
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 ▲25K 15,292 ▲250K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 ▲25K 15,293 ▲250K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,485 ▲1339K 151 ▼1334K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,485 ▲1339K 1,511 ▲25K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 147 ▼1298K 150 ▼1325K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 144,015 ▲129861K 148,515 ▲133911K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,161 ▲1875K 112,661 ▲1875K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,466 ▲170K 10,216 ▲170K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,159 ▲1525K 91,659 ▲1525K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 80,109 ▲1458K 87,609 ▲1458K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,206 ▲1042K 62,706 ▲1042K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Cập nhật: 25/11/2025 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16515 16784 17360
CAD 18161 18437 19050
CHF 31961 32342 32990
CNY 0 3470 3830
EUR 29766 30038 31064
GBP 33778 34167 35090
HKD 0 3261 3463
JPY 161 165 171
KRW 0 16 18
NZD 0 14486 15073
SGD 19674 19956 20474
THB 730 793 846
USD (1,2) 26112 0 0
USD (5,10,20) 26154 0 0
USD (50,100) 26182 26202 26403
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,002 30,026 31,165
JPY 165.38 165.68 172.62
GBP 34,197 34,290 35,098
AUD 16,814 16,875 17,313
CAD 18,398 18,457 18,982
CHF 32,333 32,434 33,108
SGD 19,853 19,915 20,536
CNY - 3,666 3,764
HKD 3,340 3,350 3,432
KRW 16.59 17.3 18.57
THB 779.85 789.48 839.79
NZD 14,536 14,671 15,015
SEK - 2,722 2,802
DKK - 4,013 4,129
NOK - 2,542 2,616
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,982.86 - 6,715.51
TWD 760 - 915.02
SAR - 6,934.15 7,258.5
KWD - 83,749 88,559
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26175 26175 26403
AUD 16701 16801 17726
CAD 18344 18444 19457
CHF 32213 32243 33829
CNY 0 3682.5 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29957 29987 31712
GBP 34087 34137 35890
HKD 0 3390 0
JPY 164.85 165.35 175.89
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14601 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19839 19969 20691
THB 0 759.5 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,185 26,235 26,403
USD20 26,185 26,235 26,403
USD1 23,889 26,235 26,403
AUD 16,739 16,839 17,961
EUR 30,077 30,077 31,215
CAD 18,277 18,377 19,703
SGD 19,908 20,058 20,632
JPY 165.26 166.76 171.47
GBP 34,154 34,304 35,104
XAU 14,838,000 0 15,042,000
CNY 0 3,560 0
THB 0 796 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 25/11/2025 11:00