Ai đã “băm nát” quy hoạch Hà Nội?

Bài 7: Di dời trường học, bệnh viện - được không?

07:24 | 26/11/2023

133 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Di dời các trường đại học, bệnh viện… là một chủ trương lớn của thành phố, nhằm “giảm tải" cho hạ tầng của các cơ sở nói riêng và đô thị nói chung. Chủ trương đúng đắn là vậy, song nhiều thập kỷ trôi qua gần như các trường đại học, bệnh viện trong diện phải di dời vẫn yên vị, không hề nhúc nhích.
Bài 7: Di dời trường học, bệnh viện - được không?

Nhiều trường đại học trên trục đường Nguyễn Trãi đã gây áp lực rất lớn lên giao thông.

20 năm trôi qua…“nguyễn y vân"

Nhiều năm trước vợ chồng anh Tuấn, chị Bình (quê TP Hải Dương) tay xách nách mang lên Hà Nội nhập học tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội). Anh học khoa Triết, chị học khoa Văn. Sau khi tốt nghiệp hai anh chị đều trở về quê sinh sống và làm việc.

Ngày là sinh viên, thông tin “nóng sốt" thỉnh thoảng anh chị được nghe là trường chuẩn bị được chuyển lên khu Hòa Lạc (Thạch Thất, Hà Tây cũ). Các lứa sinh viên sau sẽ được chuyển lên một địa điểm mới, rộng rãi, sạch đẹp “chuẩn quốc tế"...

Bẵng đi 19 năm sau khi ra trường, hai đứa con trứng gà trứng vịt của anh chị nay lần lượt tốt nghiệp THPT, rồi lên Hà Nội học tại Trường Đại học Quốc gia. Chỉ khác là cháu lớn (đang là sinh viên năm 3 Viện Đào tạo Báo chí) hiện vẫn học tại trường cũ của anh chị tại địa chỉ 336 Nguyễn Trãi (Thanh Xuân, Hà Nội). Còn cháu trai vừa nhập học trường Đại học Công nghệ thì đã được học trên Hòa Lạc.

“Ngày đưa các cháu nhập học, chúng tôi đều ngỡ ngàng trước sự thay đổi của thủ đô… May cái là cháu gái vẫn học ở chỗ hơn 20 năm trước bố mẹ từng học, nên cũng dễ tìm địa chỉ” - chị Bình chia sẻ.

Còn anh Tuấn giãi bày: “Dù 1/4 đời người đã trôi qua, song những “đặc sản" khó quên của Hà Nội thời đó vẫn còn - thậm chí còn nhiều hơn". Theo đó, năm 1999 anh Tuấn thuê trọ tại khu vực Đại La (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Mỗi buổi sáng đi học là anh phải căn thời gian cho chuẩn, kẻo rất dễ bị muộn giờ.

Quãng đường đến trường anh sẽ phải băng qua hai ngã tư: Vọng và “Ngã tư khổ" (gọi chệch từ Ngã Tư Sở) - là hai trong số những “điểm đen” giao thông của Hà Nội thời kỳ ấy. Nếu không may đi đúng giờ tắc đường thì sẽ phải mất chừng 20-30 phút mới thoát khỏi một trong hai cái ngã tư khổ sở ấy, và như vậy là muộn học.

Song cho đến thời điểm hiện tại, dù đã có cầu vượt cho cả Ngã tư Vọng lẫn Ngã Tư Sở, thì tình hình giao thông tại hai điểm đen này cũng chưa được cải thiện là bao. Mỗi buổi sáng, chiều người dân đi làm đi học qua thì vẫn bị ùn ứ, thậm chí tắc nghẽn.

Tuyến đường Nguyễn Trãi (dẫn đến trường ĐH KHXH&NV, ĐH KHTN...) dù đã được mở rộng “hết mức" thì người tham gia giao thông (đặc biệt là trong giờ cao điểm) đều có một cảm nhận là vẫn quá chật chội và nguy hiểm. Các loại ô tô xe máy xe bus xe đạp điện, xe máy điện, xe đạp… chen nhau một cách hỗn loạn. Thêm nữa người tham gia giao thông trên các tuyến đường thuộc quận Cầu Giấy, Nam Từ Liêm, Bắc Từ Liêm… cũng thường xuyên được nếm đặc sản tắc đường từ sáng đến tối. “Góp phần" cho nạn tắc đường này có nguyên nhân là do các trường đại học vẫn đứng nguyên một chỗ.

Từ năm 2010 - 2011, Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội, Bộ Xây dựng đã đưa ra đề xuất: di dời 12 trường đại học, cao đẳng ra khỏi nội đô. Tuy nhiên, cho đến nay, mới chỉ có Trường Đại học Y tế công cộng được di dời, 11 trường trong danh sách còn lại vẫn ở nguyên vị trí cũ. Riêng trường Đại học Quốc gia Hà Nội còn được quy hoạch từ những năm 2000. Cho đến thời điểm hiện tại thì đã có một số khoa tách ra thành trường, đã được chuyển lên địa điểm mới, song không vì thế mà vấn nạn kẹt xe xung quanh khu vực các trường đại học cũng như trong nội thành được giảm bớt.

Bài 7: Di dời trường học, bệnh viện - được không?

Cảnh ùn tắc diễn ra hàng ngày trước cổng BV Bạch Mai.

Bệnh viện mới - “Chùa Bà Đanh” và… đóng cửa

Cũng trong năm 2011, TP Hà Nội lập Quy hoạch chung Xây dựng Thủ đô đến 2030 tầm nhìn 2050 (QHC 1259) đã đề cập quy hoạch hệ thống y tế.

Theo đó có 13 bệnh viện lớn đang trong tình trạng quá tải, phải di dời khỏi nội thành, bao gồm: Bệnh viện Bạch Mai, Phụ sản Trung ương, Nhi Trung ương, Việt Đức, Viện K, Tai Mũi Họng, Lao và Bệnh phổi Trung ương, Châm cứu Trung ương, Y học Cổ truyền Trung ương, Nội tiết, Mắt Trung ương, Đại học Y Hà Nội và BV Hữu nghị.

Báo cáo rà soát đánh giá thực hiện QHC 1259 do Sở Quy hoạch kiến trúc lập tháng 10/2021 nhắc lại những bất cập đã được nhận diện từ 10 năm trước mà không có hoạt động khắc phục nào được triển khai. Các bệnh viện, cơ sở y tế tuyến trung ương ngày càng phình to dẫn đến gây áp lực, quá tải về hệ thống hạ tầng giao thông, hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội. Các bệnh viện, cơ sở y tế của Hà Nội đầu tư không nhiều và tiến độ chậm. Các bệnh viện, cơ sở y tế chưa gắn với các cơ sở đào tạo, sản xuất, kinh doanh thiết bị y tế, thuốc, trung tâm nghiên cứu.

Kết cục là trong vòng một thập kỷ gần như tất cả các bệnh viện trong nội thành không giảm tải mà đồng loạt nâng tầng/mở rộng, tăng diện tích sàn lên vài lần đến hàng chục lần. Các trung tâm y tế tầm cỡ quốc tế vẫn xa vời.

Bài 7: Di dời trường học, bệnh viện - được không?

BV Bạch Mai cơ sở 2 đưa vào hoạt động chưa được bao lâu thì đã bị đóng cửa.

Tháng 12/2014 tin vui đến với người dân TP Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung khi Bộ Y tế phê duyệt dự án đầu tư mới cơ sở 2 Bệnh viện Việt Đức và Bạch Mai - kỳ vọng sẽ là phương án giảm tải hiệu quả cho các bệnh viện tuyến trung ương ở miền Bắc.

Tháng 10/2018, khu khám bệnh của cả hai cơ sở này chính thức được khánh thành. Tuy nhiên ngay sau khi đưa vào sử dụng đã xảy ra một loạt bất cập.

Ban đầu, Khu khám bệnh của Bệnh viện Bạch Mai thu hút 500 - 600 bệnh nhân đến khám/ngày. Sau đó số bệnh nhân giảm dần do tại đây chỉ thăm khám, không điều trị nội trú. Bệnh nhân nặng, cấp cứu phải chuyển đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam. Các ca bệnh khó không đủ máy móc, trang thiết bị chẩn đoán phải chuyển về cơ sở 1 tại quận Đống Đa, Hà Nội.

Bài 7: Di dời trường học, bệnh viện - được không?

BV Hữu nghị Việt Đức cơ sở 2 thậm chí còn chưa đưa vào hoạt động đã đóng cửa.

Thêm vào đó với khám ngoại trú, bệnh nhân không đi đúng tuyến không được thanh toán bảo hiểm. Đến tháng 3/2020 bệnh viện thông báo tạm thời dừng hoạt động.

Hiện tại, toàn bộ số máy móc, trang thiết bị trước đó đưa xuống cơ sở 2 đã được đưa về cơ sở 1. Còn Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cơ sở 2 thậm chí mới cắt băng khánh thành và chưa từng tiếp nhận bệnh nhân.

Còn nhiều bất cập nữa khiến cho hai bệnh viện với 2.000 giường, có tổng mức đầu tư gần 10 ngàn tỷ đồng đang trong tình trạng… chết lâm sàng! Và hy vọng giảm tải cho hạ tầng của thành phố cũng tắt ngúm.

Đề xuất sẽ quy hoạch mạng lưới bệnh viện theo vùng

Cuối tháng 7/2023 Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã chủ trì cuộc họp với Bộ Y tế và các cơ quan liên quan, nhằm thẩm định Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Trước thực trạng Bệnh viện Trung ương luôn trong tình trạng quá tải và mới chỉ tập trung ở 1 số khu vực, chưa đảm bảo khả năng tiếp cận đầy đủ của mọi người dân, quy hoạch cơ sở y tế mới đề xuất sẽ quy hoạch mạng lưới bệnh viện theo vùng.

Quy hoạch đặt mục tiêu đến năm 2025, xây dựng mạng lưới cơ sở khám chữa bệnh đủ năng lực chăm sóc sức khỏe nhân dân của nước đang phát triển; chỉ tiêu cứ 10 nghìn dân thì có 33 giường bệnh, 15 bác sĩ, 3-4 dược sĩ, 25 điều dưỡng. Đến năm 2030, tiếp tục đầu tư nâng cấp một số bệnh viện cấp quốc gia thành bệnh viện hiện đại ngang tầm các nước tiên tiến.

Nhằm khắc phục bất cập trong phân bổ chưa đồng đều các Bệnh viện Trung ương, tuyến cuối hiện nay, Quy hoạch dự kiến đầu tư, nâng cấp 12 bệnh viện đa khoa tỉnh đảm nhận chức năng của bệnh viện cấp vùng. Đối với các vùng có quy mô dân số cao, như Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ, đề xuất đầu tư nâng cấp 2 bệnh viện đa khoa thành phố Hà Nội và 2 bệnh viện đa khoa thành phố Hồ Chí Minh thành 2 bệnh viện vùng, với điều kiện thành phố phải bố trí quỹ đất để mở rộng diện tích đất cho bệnh viện…

Minh Tiến

Bài 1: Bài 1: "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Bài 2: Khu đô thị kiểu mẫu bị Bài 2: Khu đô thị kiểu mẫu bị "phá nát" bởi các nhà cao tầng
Bài 3: Hàng trăm dự án “ôm đất” chậm triển khai, xử lý thế nào?Bài 3: Hàng trăm dự án “ôm đất” chậm triển khai, xử lý thế nào?
Bài 4: “Sống trong sợ hãiBài 4: “Sống trong sợ hãi" tại các khu tái định cư
Bài 5: Quy hoạch PCCC, thoát nước chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân Thủ đôBài 5: Quy hoạch PCCC, thoát nước chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân Thủ đô
Bài 6: Các dự án chậm triển khai do đâu?Bài 6: Các dự án chậm triển khai do đâu?

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 114,900 117,200
AVPL/SJC HCM 114,900 117,200
AVPL/SJC ĐN 114,900 117,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 08/06/2025 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 113.600
TPHCM - SJC 114.900 117.200
Hà Nội - PNJ 111.000 113.600
Hà Nội - SJC 114.900 117.200
Đà Nẵng - PNJ 111.000 113.600
Đà Nẵng - SJC 114.900 117.200
Miền Tây - PNJ 111.000 113.600
Miền Tây - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 113.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 112.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 112.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 111.970
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 84.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 66.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 47.160
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 103.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 69.080
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 73.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 76.990
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 42.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 37.440
Cập nhật: 08/06/2025 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 11,410
Trang sức 99.9 10,980 11,400
NL 99.99 10,740
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 11,470
Miếng SJC Thái Bình 11,490 11,720
Miếng SJC Nghệ An 11,490 11,720
Miếng SJC Hà Nội 11,490 11,720
Cập nhật: 08/06/2025 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16380 16648 17235
CAD 18487 18764 19394
CHF 31053 31431 32090
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29317 30362
GBP 34416 34807 35772
HKD 0 3188 3392
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15946
SGD 19657 19938 20475
THB 710 773 827
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26240
Cập nhật: 08/06/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 08/06/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 08/06/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 08/06/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 08/06/2025 07:00