Hoàn thiện thể chế phát triển Tập đoàn Kinh tế Nhà nước

Bài 3: Thể chế ảnh hưởng như thế nào đến doanh nghiệp?

06:21 | 16/01/2019

691 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Việc cải cách thể chế, đặc biệt là tôn trọng quyền sở hữu, cạnh tranh bình đẳng và tính minh bạch của các chủ thể kinh tế trong cùng một “sân chơi” thị trường, là điều kiện rất cần thiết để các nguồn lực có thể được phân bổ hiệu quả hơn và đó cũng chính là động lực quan trọng thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp phát triển, góp phần vào thành công chung của quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.  

Vẫn chưa hoàn thiện

Trong suốt 30 năm đổi mới, các chính sách phát triển doanh nghiệp nhà nước liên tục thay đổi trong từng giai đoạn để phù hợp với điều kiện phát triển trong bối cảnh mới của hội nhập và tạo điều kiện cho toàn nền kinh tế phát triển.

bai 3 the che anh huong nhu the nao den doanh nghiep
Hội thảo khoa học "Hoàn thiện thể chế phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước".

Mở đầu là Quyết định số 217/HĐBT được ban hành với các chính sách đổi mới kế hoạch hóa và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước được tự chủ trong sản xuất kinh doanh, hạch toán độc lập, lấy thu bù chi. Cùng với đó là các cơ chế kiểm soát thương mại trong nước được bãi bỏ.

Năm 1990, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước bắt đầu được tiến hành dựa trên Quyết định số 143/HĐBT. Từ đó, hàng loạt các văn bản được ban hành nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. trong đó, Nghị định số 187/2004/NĐ-CP đánh dấu nhiều chuyển biến mới trong chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đối tượng cổ phần hóa được mở rộng bao gồm cả các công ty thành viên của các tổng công ty nhà nước và ngay cả chính tổng công ty nhà nước.

Luật doanh nghiệp năm 2005 được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để quản lý khối doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp trong nền kinh tế hoạt động trong môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn. Việc xuất hiện mô hình hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) và Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) đã giúp tăng cường hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nghị định số 69/NĐ-CP cũng được ban hành dành riêng cho tập đoàn và tổng công ty nhà nước.

Thay đổi đáng kể nhất của việc cải tiến mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước là Nghị định số 99/2012/NĐ-CP đã điều chỉnh lại quy định về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Ngoài mục đích phân tách rõ ràng quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ giữa các cơ quan như Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, UBND tỉnh, hội đồng quản trị...

Nghị định này hướng đến việc giảm bớt quyền lực của hội đồng quản trị các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, chuyển lên cấp trên quản lý theo thẩm quyền. Nếu doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, trách nhiệm đầu tiên là hội đồng thành viên, kế đến là bộ quản lý ngành, UBND cấp tỉnh. Một số quyền của Thủ tướng Chính phủ cũng được chuyển sang cho Chính phủ.

Phát biểu tại Hội thảo Hoàn thiện thể chế phát triển Tập đoàn Kinh tế Nhà nước, Phó giáo sư - Tiến sĩ Phạm Ngọc Linh đã thẳng thắng chỉ ra rằng, những điều chỉnh đề cập ở trên chưa đảm bảo việc tách biệt chức năng quyền sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước tại các cơ quan chủ quản. Việc thu lại một số quyền quyết định của hội đồng quản trị tại các tổng công ty, tập đoàn nhà nước chuyển lên cho các bộ chủ quản, làm cho hai chức năng này càng trở nên lẫn lộn.

Không những thế, việc thực hiện các quyền chủ sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước lại bị phân tán cho nhiều cơ quan: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; các bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật; các bộ quản lý chức năng như: Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; UBND cấp tỉnh; hội đồng quản trị tổng công ty 91; hội đồng quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước.

Bên cạnh đó, một số cơ quan khác như Văn phòng Trung ương Đảng, Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam... tham gia Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, cũng được hiểu gần như là tham gia quản lý, giám sát đối với doanh nghiệp nhà nước. Điều này khiến cho trách nhiệm giải trình và trách nhiệm pháp lý của các quyết định không được xác định rõ ràng - Phó giáo sư - Tiến sĩ Phạm Ngọc Linh nhấn mạnh.

DNNN chưa đạt kỳ vọng

Cho đến nay, khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn được coi là hưởng nhiều ưu đãi hơn so với các khu vực khác, đặc biệt trong việc tiếp cận đất đai và vốn. Đất đai không phải là mối bận tâm lớn của các doanh nghiệp nhà nước, bởi lẽ, các doanh nghiệp này được thừa hưởng mặt bằng rộng rãi, thuận lợi và đều đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài.

bai 3 the che anh huong nhu the nao den doanh nghiep
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vẫn chậm và hiệu quả chưa cao.

Các doanh nghiệp nhà nước thường có lợi thế hơn khi tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng so với các doanh nghiệp tư nhân. Ngoài lý do giá trị tài sản đảm bảo lớn, doanh nghiệp nhà nước thường được đánh giá là an toàn vì được Nhà nước bảo lãnh hoặc bảo lãnh ngầm, và do đó dễ tiếp cận các nguồn ưu đãi.

Trong thực tế, quy định doanh nghiệp không được huy động vốn gấp 3 lần vốn chủ sở hữu thường chỉ áp dụng chặt chẽ với doanh nghiệp ngoài nhà nước, nhiều doanh nghiệp nhà nước được coi là ngoại lệ. Không chỉ được ưu tiên tiếp cận nguồn vốn tín dụng trong nước, các doanh nghiệp nhà nước còn được ưu tiên tiếp cận vốn vay nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp nhà nước được Chính phủ bảo lãnh vay tín dụng thương mại của nước ngoài hoặc được Chính phủ cho vay lại từ nguồn vốn trái phiếu quốc tế do Chính phủ phát hành.

Theo Phó giám sư -Tiến sĩ Phạm Ngọc Linh, bàn sâu về mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước, cho thấy, về động cơ hình thành là nhằm phục vụ cho việc quản lý vĩ mô, bình ổn kinh tế, và đảm bảo an sinh xã hội; công nghiệp hóa và thu hẹp khoảng cách công nghiệp với các quốc gia phát triển thông qua lợi thế kinh tế nhờ quy mô và chuẩn bị đối diện với thách thức cạnh tranh hậu WTO. Tuy nhiên, đằng sau cả ba động cơ này là một chủ trương xuyên suốt, khu vực kinh tế nhà nước (nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước) luôn đóng vai trò chủ đạo và chi phối toàn nền kinh tế.

Đã có tổng cộng 12 tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập. Với động cơ hình thành và phát triển như thế, các tập đoàn kinh tế nhà nước được hưởng rất nhiều ưu đãi đặc biệt từ phía Chính phủ, nhất là việc các tập đoàn kinh tế nhà nước có thể mở rộng được quy mô và phạm vi hoạt động nhờ vào nguồn tín dụng dồi dào với chi phí thấp, hoặc thông qua tín dụng nhà nước, thông qua các hình thức bảo lãnh tín dụng công khai hoặc ngầm ẩn. Được tạo mọi điều kiện để phát triển nhưng nguyên nhân do đâu mà các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn bị đánh giá là có hiệu quả thấp?

Giải đáp câu hỏi trên, Phó giáo sư - Tiến sĩ Phạm Ngọc Linh cho rằng nguyên nhân chính xuất phát từ việc hầu hết các tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam đều mở rộng hoạt động trong các ngành rủi ro cao như bất động sản, tài chính, ngân hàng… không hề liên quan đến hoạt động kinh doanh cốt lõi của tập đoàn (trung bình hoạt động trong 6,4 ngành, cao nhất trong số các quốc gia trong khu vực và châu Á).

Việc mở rộng đầu tư vào các ngành ít liên quan đến ngành kinh doanh chính như vậy sẽ làm phân tán nguồn lực, hiệu quả không cao và chứa đựng rủi ro lớn. Chưa kể, cùng với sự tăng liên tục về số lượng công ty con, công ty cháu, rồi công ty liên kết, đồng thời sở hữu chéo của nhau, tất yếu sẽ hình thành những nhóm đặc quyền liên kết với nhau chặt chẽ và tác động trở lại tới chính sách của các bộ, ngành theo hướng có lợi cho nhóm. Đặc biệt, sự bành trướng quá nhanh và liên kết ngày càng chặt chẽ của các tập đoàn kinh tế nhà nước làm cho sự kiểm soát của Nhà nước trở nên khó khăn.

Có thể thấy rằng, việc hoàn thiện thể chế để các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế ngày càng bình đẳng trong sân chơi kinh tế thị trường là điều cấp thiết. Đảng và Chính phủ đang cùng lúc phải cải thiện thể chế đồng thời xử lý vấn đề lợi ích nhóm để đưa các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế trở lại đúng vị trí của mình để vận hành thị trường đúng theo quy luật tất yếu của nó.

Tùng Dương

bai 3 the che anh huong nhu the nao den doanh nghiep VERP đề xuất 4 chính sách ổn định tăng trưởng kinh tế
bai 3 the che anh huong nhu the nao den doanh nghiep Thúc đẩy chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ nước ngoài vào Việt Nam
bai 3 the che anh huong nhu the nao den doanh nghiep Những chính sách về y tế, sức khỏe có hiệu lực từ tháng 1/2019
bai 3 the che anh huong nhu the nao den doanh nghiep Sẽ có hai mức quà tặng Tết Kỷ Hợi cho người có công
bai 3 the che anh huong nhu the nao den doanh nghiep Nỗ lực cải thiện 3 điểm nghẽn là thể chế, cơ sở hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực
bai 3 the che anh huong nhu the nao den doanh nghiep Để tập đoàn kinh tế Nhà nước thực sự là “quả đấm thép”…
bai 3 the che anh huong nhu the nao den doanh nghiep Hoàn thiện thể chế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nhà nước
bai 3 the che anh huong nhu the nao den doanh nghiep Tái cơ cấu ngành dầu khí cần song hành với hoàn thiện thể chế

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,000 122,000
AVPL/SJC HCM 120,000 122,000
AVPL/SJC ĐN 120,000 122,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,170 11,450
Nguyên liệu 999 - HN 11,160 11,440
Cập nhật: 12/05/2025 06:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.600
TPHCM - SJC 120.000 122.000
Hà Nội - PNJ 114.000 116.600
Hà Nội - SJC 120.000 122.000
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.600
Đà Nẵng - SJC 120.000 122.000
Miền Tây - PNJ 114.000 116.600
Miền Tây - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 116.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 115.670
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 115.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 87.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 68.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 48.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 106.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 71.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 75.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 79.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 43.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 38.600
Cập nhật: 12/05/2025 06:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,290 11,740
Trang sức 99.9 11,280 11,730
NL 99.99 11,100
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,500 11,800
Miếng SJC Thái Bình 12,000 12,200
Miếng SJC Nghệ An 12,000 12,200
Miếng SJC Hà Nội 12,000 12,200
Cập nhật: 12/05/2025 06:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16118 16385 16969
CAD 18096 18371 18995
CHF 30572 30948 31621
CNY 0 3358 3600
EUR 28572 28839 29883
GBP 33740 34129 35080
HKD 0 3207 3411
JPY 171 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15024 15625
SGD 19454 19734 20278
THB 703 766 820
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26155
Cập nhật: 12/05/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 33,951 34,043 34,943
HKD 3,282 3,292 3,391
CHF 30,810 30,906 31,767
JPY 175.11 175.43 183.25
THB 749.74 759 812.07
AUD 16,397 16,456 16,901
CAD 18,405 18,464 18,964
SGD 19,652 19,713 20,338
SEK - 2,632 2,724
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,849 3,981
NOK - 2,452 2,538
CNY - 3,548 3,644
RUB - - -
NZD 14,981 15,120 15,554
KRW 17.19 17.93 19.27
EUR 28,755 28,778 30,006
TWD 777.95 - 941.86
MYR 5,633.75 - 6,359.66
SAR - 6,810.25 7,168.24
KWD - 82,426 87,642
XAU - - -
Cập nhật: 12/05/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,557 28,672 29,776
GBP 33,746 33,882 34,851
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 30,669 30,792 31,690
JPY 173.90 174.60 181.74
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,615 19,694 20,232
THB 763 766 800
CAD 18,311 18,385 18,897
NZD 15,042 15,549
KRW 17.63 19.42
Cập nhật: 12/05/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16257 16357 16925
CAD 18304 18404 18957
CHF 30785 30815 31712
CNY 0 3549.6 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28845 28945 29720
GBP 33935 33985 35098
HKD 0 3355 0
JPY 175.09 176.09 182.64
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15080 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19610 19740 20471
THB 0 730.9 0
TWD 0 845 0
XAU 12000000 12000000 12150000
XBJ 12000000 12000000 12150000
Cập nhật: 12/05/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,170
USD20 25,780 25,830 26,170
USD1 25,780 25,830 26,170
AUD 16,311 16,461 17,531
EUR 28,899 29,049 30,224
CAD 18,245 18,345 19,662
SGD 19,685 19,835 20,311
JPY 175.65 177.15 181.84
GBP 34,012 34,162 34,952
XAU 11,649,000 0 12,051,000
CNY 0 3,432 0
THB 0 766 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 12/05/2025 06:00