Hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế, đất đai và tín dụng xanh:

Đòn bẩy thu hút đầu tư cho chuyển đổi xanh

21:24 | 21/10/2025

9 lượt xem
|
(PetroTimes) - Các chuyên gia cho rằng, để thúc đẩy chuyển đổi xanh và chuyển đổi năng lượng công bằng, Nhà nước cần sớm ban hành những chính sách ưu đãi cụ thể về thuế, đất đai và tín dụng xanh. Đây là những công cụ quan trọng giúp thu hút dòng vốn tư nhân, khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, đồng thời tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế xanh và tăng trưởng bền vững.

Trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ thúc đẩy chuyển đổi xanh và phát triển bền vững” mới đây, TS. Hà Thị Hồng Vân - Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã trình bày tham luận với chủ đề “Chính sách, pháp luật chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng công bằng và bền vững”, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế và chính sách để hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Chuyển đổi xanh - Xu thế tất yếu của phát triển bền vững

Theo TS. Hà Thị Hồng Vân, chuyển đổi xanh là quá trình chuyển đổi nền kinh tế - xã hội từ mô hình phát triển truyền thống dựa vào năng lượng hóa thạch và khai thác tài nguyên không bền vững, sang mô hình phát triển mới, hướng tới sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm phát thải và bảo vệ môi trường. Đây không chỉ là xu thế toàn cầu, mà còn là điều kiện bắt buộc để Việt Nam đảm bảo phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời kỳ hội nhập sâu rộng.

Đòn bẩy thu hút đầu tư cho chuyển đổi xanh
Việt Nam đã chủ động tham gia các sáng kiến và cam kết quốc tế về giảm phát thải. Đặc biệt, Tuyên bố tại COP26 về mục tiêu đạt Net-zero vào năm 2050.

Bà nhấn mạnh: “Chuyển đổi xanh chỉ thực sự thành công nếu đi đôi với chuyển đổi năng lượng công bằng - tức là chuyển từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng sạch, ít carbon, mà không làm tổn hại đến sinh kế, việc làm và an sinh xã hội”. Trong bối cảnh các quốc gia đều đặt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào giữa thế kỷ XXI, điều này càng trở nên cấp bách đối với một nền kinh tế đang phát triển nhanh như Việt Nam, nơi mà ngành năng lượng hiện chiếm tới hơn 60% tổng lượng phát thải khí nhà kính.

Những năm gần đây, Việt Nam đã chủ động tham gia các sáng kiến và cam kết quốc tế về giảm phát thải. Đặc biệt, Tuyên bố tại COP26 về mục tiêu đạt Net-zero vào năm 2050 đã mở ra giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ, khẳng định quyết tâm chính trị cao của Chính phủ.

Thực hiện cam kết quốc tế, Việt Nam đã ban hành hàng loạt chính sách và chiến lược quốc gia quan trọng như Nghị quyết 55-NQ/TW về định hướng phát triển năng lượng quốc gia; Chiến lược tăng trưởng xanh 2021-2030, tầm nhìn 2050; Quy hoạch điện VIII; và chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Các văn bản này cùng hướng tới mục tiêu xây dựng nền năng lượng hiện đại, bền vững, bảo đảm an ninh năng lượng, giảm phát thải và phát triển kinh tế xanh.

Một dấu mốc quan trọng là tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), được Việt Nam ký với Nhóm Đối tác Quốc tế (IPG) tháng 12/2022. Theo đó, Việt Nam sẽ được hỗ trợ ít nhất 15,5 tỷ USD trong vòng 3-5 năm để đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi năng lượng. Mục tiêu của JETP là giảm 30% lượng phát thải ngành điện, đưa tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 47% vào năm 2030, giới hạn công suất điện than không quá 30,2 GW và hướng tới loại bỏ dần các nhà máy nhiệt điện than sau năm 2030.

Quyết định 1009/QĐ-TTg năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án triển khai JETP, đặt trọng tâm vào hoàn thiện khung pháp lý, huy động nguồn lực và phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo. Việt Nam hướng tới trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của khu vực, phát triển đội ngũ chuyên gia giỏi về chuyển đổi năng lượng công bằng, đồng thời xây dựng hai trung tâm công nghiệp - dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng trước năm 2030.

Hoàn thiện chính sách - Chìa khóa của chuyển đổi xanh thành công

Dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, theo TS. Hà Thị Hồng Vân, quá trình chuyển đổi xanh tại Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều khó khăn và bất cập. Thách thức lớn nhất là thiếu nguồn lực tài chính và năng lực công nghệ. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, để đạt mục tiêu tăng trưởng xanh đến năm 2040, Việt Nam cần khoảng 368 tỷ USD, tương đương 20 tỷ USD mỗi năm. Đây là con số rất lớn so với khả năng ngân sách hiện nay.

Ngoài ra, tỷ trọng năng lượng tái tạo còn hạn chế, hệ thống truyền tải chưa đồng bộ, công nghệ lưu trữ điện và thu hồi carbon còn yếu. Nhiều chính sách thiếu tính ổn định, gây rủi ro cho nhà đầu tư; việc tiêu chuẩn hóa, dán nhãn sinh thái, quản lý sản phẩm xanh còn chậm. Mặt khác, nhận thức của người dân và doanh nghiệp về chuyển đổi xanh vẫn chưa đồng đều, thói quen tiêu dùng bền vững chưa được hình thành rộng rãi.

Đòn bẩy thu hút đầu tư cho chuyển đổi xanh
Tuyên bố tại COP26 về mục tiêu đạt Net-zero vào năm 2050 đã mở ra giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ, khẳng định quyết tâm chính trị cao của Chính phủ.

Từ thực tiễn nghiên cứu và phân tích, TS. Hà Thị Hồng Vân đã đề xuất một loạt kiến nghị chính sách nhằm tháo gỡ rào cản, khơi thông nguồn lực cho chuyển đổi xanh và năng lượng công bằng ở Việt Nam.

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách về năng lượng. Cần rà soát, sửa đổi và bổ sung các luật liên quan như Luật Điện lực, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho phát triển năng lượng tái tạo. Đồng thời, cần có các chính sách ưu đãi cụ thể về thuế, đất đai, tín dụng xanh để thu hút đầu tư tư nhân và hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Chính phủ cũng cần xây dựng lộ trình loại bỏ điện than rõ ràng, minh bạch, tránh rủi ro cho nhà đầu tư và đảm bảo an sinh cho người lao động trong ngành.

Thứ hai, đa dạng hóa nguồn vốn và cơ chế tài chính xanh. Chuyển đổi năng lượng đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, do đó phải kết hợp linh hoạt giữa vốn ngân sách, vốn vay ưu đãi quốc tế và dòng vốn tư nhân. Việt Nam cần phát triển thị trường tài chính xanh, phát hành trái phiếu xanh, khuyến khích ngân hàng thương mại ưu tiên tín dụng cho dự án năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, cần đơn giản hóa thủ tục tiếp nhận viện trợ, tránh tình trạng mất thời gian cho khâu hành chính khiến dự án bị chậm tiến độ.

Thứ ba, đảm bảo công bằng xã hội trong chuyển đổi năng lượng. Một quá trình chuyển đổi bền vững không thể tách rời yếu tố công bằng. Chính phủ cần xây dựng chính sách an sinh, hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi việc làm cho người lao động trong các ngành chịu ảnh hưởng bởi việc cắt giảm điện than. Người dân phải được tham gia, đồng thời hưởng lợi trực tiếp từ quá trình chuyển đổi - cả về sinh kế, cơ hội việc làm và môi trường sống.

Thứ tư, phát huy vai trò dẫn dắt của Nhà nước thông qua chính sách mua sắm công xanh. Theo TS. Vân, đây là một trong những công cụ chính sách hiệu quả nhất để kích cầu tiêu dùng xanh. Cần sớm ban hành quy định về tỷ lệ chi mua sắm công xanh, trong đó ưu tiên sử dụng xe công chạy điện hoặc nhiên liệu sạch, sản phẩm dán nhãn sinh thái, công trình xanh trong các dự án đầu tư công. Khi khu vực công đi đầu, sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội.

Thứ năm, hoàn thiện bộ tiêu chí, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật cho từng ngành, lĩnh vực. Đặc biệt, trong lĩnh vực sản xuất, nông nghiệp hữu cơ và tiêu dùng xanh, việc ban hành tiêu chí minh bạch và cơ chế kiểm định nghiêm ngặt là hết sức cần thiết. Bà dẫn chứng, hiện nay mới có 112 sản phẩm được cấp nhãn sinh thái, con số quá nhỏ so với tiềm năng. Việc thiếu niềm tin vào chứng nhận sản phẩm “xanh” khiến doanh nghiệp ngại tham gia, làm chậm tiến trình xanh hóa sản xuất.

Thứ sáu, đẩy mạnh truyền thông, giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng. Chuyển đổi xanh không chỉ là câu chuyện của công nghệ hay đầu tư, mà còn là sự thay đổi về văn hóa phát triển. Cần đẩy mạnh các chương trình tuyên truyền, giáo dục xanh trong trường học, cộng đồng; khuyến khích lối sống xanh, tiêu dùng có trách nhiệm, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

Theo TS. Hà Thị Hồng Vân, chuyển đổi xanh không chỉ là một xu hướng, mà là nhiệm vụ chiến lược của quốc gia trong thế kỷ XXI. Việt Nam đang cùng lúc tiến hành ba quá trình: chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn. Để đi nhanh và bền vững, cần sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội, trong đó chính sách và pháp luật phải đi trước một bước.

Đình Khương

  • bidv-14-4