VERP đề xuất 4 chính sách ổn định tăng trưởng kinh tế

07:32 | 12/01/2019

241 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Mặc dù đưa ra nhận định khác lạc quan về tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2019 có thể đạt tới 6,9% nhưng Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành – Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng cần thực hiện ngay một số chính sách cụ thể hơn nữa để ổn định tốc độ phát triển kinh tế vĩ mô cũng như phòng ngừa tác động từ bên ngoài.

Theo phân tích của VEPR, trong nhiều năm gần đây, bức tranh ngân sách và nợ công không được cải thiện. Quy mô nợ công lớn và sát ngưỡng cho phép (65% GDP) khiến gánh nặng chi trả nợ lãi ngày càng cao. Nguồn thu ngân sách vẫn chỉ đủ hoặc dư thừa không đáng kể sau khi thực hiện tiêu dùng của nhà nước, không có tiết kiệm (phải vay nợ) để thực hiện đầu tư phát triển. Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/GDP có giảm đôi chút nhưng lại chủ yếu là nhờ tư nhân hóa nhiều dịch vụ công.

verp de xuat 4 chinh sach on dinh tang truong kinh te
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành – Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách.

Đặc biệt, khối tài sản nhà nước ngày càng giảm thông qua bán vốn DNNN hoặc bán các tài sản nhà nước khác nhưng thâm hụt ngân sách lại không được thu hẹp (vẫn khoảng 4% chưa kể chi trả nợ gốc). Điều này có nghĩa là Việt Nam cũng thiếu “đệm tài khóa” để đối phó với các cú sốc bên ngoài (nếu có) như nhiều quốc gia khác. Môi trường kinh doanh theo đó cũng khó được cải thiện khi doanh nghiệp và người dân luôn phải đối mặt với nỗi lo tăng thuế phí để bù đắp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ.

Trước tiến trình “bình thường hóa” chính sách tiền tệ từ các nước phát triển và nguy cơ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung leo thang trong năm 2019, Việt Nam một mặt nên tiếp tục tiến trình cải thiện điều kiện thể chế - kinh tế trong nước, cải cách tài khóa và thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN, mặt khác nên tập trung chuẩn bị các điều kiện về tài khóa, tiền tệ và tỷ giá để sẵn sàng đối mặt với những bất ổn từ kinh tế thế giới.

Từ phân tích trên, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành thay mặt nhóm nghiên cứu đưa ra đề nghị một số chính sách ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Thứ nhất là cần điều hành tỷ giá một cách linh hoạt theo hướng thích ứng (hấp thụ bớt) các cú sốc từ bên ngoài. Ví dụ, việc chủ động giảm giá VND một cách khéo léo giữa mức mất giá của CNY so với USD như VEPR từng đề xuất là cần thiết để Việt Nam thích ứng trong cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung. Việc điều chỉnh tỷ giá như vậy giúp Việt Nam tận dụng hai thị trường lớn để có thể cải thiện tình trạng sản xuất và cán cân thương mại.

Tiếp theo là chính sách hạ thấp đòn bẩy (deleveraging), điều tiết và giám sát chặt chẽ nhằm nâng cao sức khỏe của hệ thống tài chính. Tuy các ngân hàng đã có những nỗ lực xử lý nợ xấu trong thời gian qua, rủi ro về chu kỳ nợ xấu mới vẫn là tiềm tàng với hệ thống tổ chức tài chính của Việt Nam khi tín dụng đổ vào các lĩnh vực rủi ro như BOT, BĐS, và gần đây là tín dụng tiêu dùng trên thực tế vẫn cao. Việc thu hồi vốn vay từ các dự án giao thông BOT, BT không hề đơn giản khi nhiều công trình từ các dự án này liên tiếp bị phát hiện sai phạm, khiến thời gian hoàn vốn của chúng có thể kéo dài hơn dự kiến.

Với lĩnh vực BĐS, dù đã được kiểm soát chặt chẽ hơn nhưng tỷ trọng tín dụng đổ vào BĐS vẫn tăng, chưa kể tín dụng núp bóng khoản vay tiêu dùng. Khi thị trường BĐS trở nên suy yếu, khoản tín dụng đổ vào đây có thể trở thành nợ xấu khó đòi. Thêm vào đó, tín dụng tiêu dùng đang dần trở thành một trong những động lực quan trọng cho tăng trưởng của hệ thống ngân hàng. Nếu không được giám sát chặt chẽ rất có thể chúng sẽ trở thành gánh nặng khó chi trả của các hộ gia đình khi nền kinh tế gặp phải các cú sốc.

Do vậy, việc hạ thấp đòn bẩy và kiểm soát tín dụng với các lĩnh vực rủi ro là điều cần thiết nhằm tăng cường khả năng chống chọi của hệ thống tài chính trước những cú sốc.

VEPR cho rằng Chính phủ cần thận trọng hơn với tăng trưởng cung tiền (khống chế trong khoảng 12%/năm). Tuy tổng phương tiện thanh toán có xu hướng tăng chậm lại trong những năm gần đây, tỷ lệ M2/GDP của Việt Nam hiện vẫn đạt khoảng 170%. Trong bối cảnh NHNN vẫn giữ lãi suất điều hành ở mức thấp, việc giảm tỷ lệ cung tiền sẽ giúp cho Việt Nam có thêm dư địa chính sách tiền tệ để ứng phó với những cú sốc từ bên ngoài.

Cuối cùng là cần có chính sách để từng bước xây dựng “đệm tài khóa”. Trong những năm gần đây, bức tranh về thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam vẫn chưa được cải thiện nhiều. Khi nguồn vay ODA ngày càng càng hạn chế, Việt Nam phải dựa nhiều vào nguồn nội lực nhiều hơn cho đầu tư phát triển. Điều này chỉ có thể được thực hiện thông qua việc thu gọn, tinh giản và sắp xếp lại bộ máy chính quyền để giảm chi thường xuyên. Qua đó, thâm hụt ngân sách sẽ dần được cắt giảm và tạo được “đệm tài khóa” nhằm tăng cường khả năng thích ứng của nền kinh tế trước những biến động khó lường của kinh tế thế giới.

Tùng Dương

verp de xuat 4 chinh sach on dinh tang truong kinh te Kịch bản cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2019-2020
verp de xuat 4 chinh sach on dinh tang truong kinh te Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung: Việt Nam có thể trở thành "vịnh tránh bão”?
verp de xuat 4 chinh sach on dinh tang truong kinh te Tăng trưởng kinh tế: Trông chờ ở "đàn sếu lớn" trong khối doanh nghiệp tư nhân
verp de xuat 4 chinh sach on dinh tang truong kinh te Kinh tế Việt Nam: Triển vọng tươi sáng
verp de xuat 4 chinh sach on dinh tang truong kinh te Chuyên gia kinh tế: "Việt Nam phải phát triển nhanh mới đuổi kịp các nước đi trước"

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc