Việt Nam có hai điểm sáng sẽ là động lực duy trì tăng trưởng kinh tế

16:43 | 25/09/2019

535 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Mặc dù nửa đầu năm 2019, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội chậm lại song nửa cuối năm và thậm chí sang cả năm 2020, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng tốt, dù có thấp hơn so với năm 2018 và bất chấp môi trường bên ngoài suy yếu. Cơ sở để ADB dự báo như vậy chính là hai điểm sáng trong nền kinh tế Việt Nam là tiêu dùng nội địa tăng mạnh và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước đã có sự dịch chuyển tốt thay vì vai trò chủ đạo xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI hiện nay.    
viet nam co hai diem sang se la dong luc duy tri tang truong kinh teADB tăng nguồn hỗ trợ nữ doanh nhân Việt Nam
viet nam co hai diem sang se la dong luc duy tri tang truong kinh teChâu Á và Thái Bình Dương cần 1.700 tỉ USD vốn đầu tư cơ sở hạ tầng mỗi năm
viet nam co hai diem sang se la dong luc duy tri tang truong kinh teADB: Việt Nam sẽ tăng trưởng 6,5% trong 2015

Tốc độ tăng trưởng giảm nhẹ

Tại cuộc họp báo Cập nhật báo cáo triển vọng châu Á của ADB diễn ra sáng nay 25/9, nhận định về tình hình kinh tế Việt Nam, Giám đốc Quốc gia của ADB tại Việt Nam, ông Eric Sidgwick nói: “Mặc dù tăng trưởng xuất khẩu bị chững lại do xung đột thương mại leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc kéo theo sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh nhờ cầu nội địa tiếp tục gia tăng và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được duy trì. Triển vọng về tiêu dùng trong nước tiếp tục sáng sủa, được hỗ trợ bởi sự gia tăng thu nhập, mở rộng việc làm và lạm phát duy trì ở mức thấp”.

viet nam co hai diem sang se la dong luc duy tri tang truong kinh te

Minh chứng cho nhận định này, ông Eric Sidgwick dự báo, lạm phát sẽ giảm từ 3,5% xuống còn 3,0% trong năm 2019 và từ 3,8% xuống còn 3,5% trong năm 2020. Thặng dư tài khoản vãng lai được thu hẹp trong cả 2 năm ở mức cao hơn so với dự báo hồi tháng 4. Mặc dù hoạt động xuất khẩu tăng trưởng chậm lại, song ADB cho rằng nền kinh tế nhìn chung vẫn duy trì tăng trưởng lành mạnh nhờ nhu cầu nội địa cao và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được duy trì ổn định.

Cụ thể, tốc độ tăng trưởng GDP đã giảm nhẹ từ 7,0% trong 6 tháng đầu năm 2018 xuống 6,8% trong cùng kỳ năm nay. Do nhu cầu từ bên ngoài giảm, tốc độ tăng trưởng lượng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng giảm hơn một nửa, từ 15,7% trong sáu tháng đầu năm 2018 xuống 7,1% cùng kỳ năm nay. Tuy vậy, tác động bất lợi của việc giảm tốc độ tăng xuất khẩu lên tăng trưởng GDP đã bị hạn chế nhờ nhu cầu nội địa tiếp tục giữ vững.

Ông Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB cho biết, tiêu dùng cá nhân tăng trưởng tốt ở mức 7,2%, tương đương tốc độ năm trước, chủ yếu do thu nhập gia tăng, việc làm ổn định và lạm phát ở mức thấp. Đồng thời, đầu tư trong nước tăng trưởng 7,1%, tương đương mức tăng trưởng của năm trước nhờ môi trường kinh doanh cải thiện, niềm tin của nhà đầu tư tiếp tục được duy trì và dòng vốn đầu tư nước ngoài cao.

Cũng theo ADB, trong 6 tháng đầu năm 2019 có 67.000 doanh nghiệp mới thành lập, đây là mức cao nhất của 6 tháng đầu năm trong vòng 5 năm qua. Giải ngân vốn FDI ước tính tăng 8,1% trong nửa đầu năm 2019, đạt 9,1 tỉ USD, tương đương 8,4% GDP. Đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng phản ánh niềm tin của doanh nghiệp được cải thiện, tăng gần gấp đôi trong 6 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm 2018, đạt 8,1 tỉ USD.

Nông nghiệp giảm mạnh nhất vì dịch bệnh

Tốc độ tăng trưởng của tất cả các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đều giảm nhẹ, song ở các mức độ khác nhau. Hạn hán kéo dài và dịch tả lợn châu Phi bùng phát làm cho tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp giảm từ 3,8% trong nửa đầu năm 2018 xuống còn 2,4% trong cùng kỳ năm nay. Trong ngành nông nghiệp, tăng trưởng sản xuất nông nghiệp giảm mạnh từ 3,1% xuống còn 1,3%, tăng trưởng sản lượng lâm nghiệp cũng giảm từ 5,5% xuống 4,2%, trong khi thuỷ sản vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao 6,4%.

viet nam co hai diem sang se la dong luc duy tri tang truong kinh te
Nông nghiệp thiệt hại vì dịch tả lợn châu Phi

Về công nghiệp và xây dựng trong 6 tháng, ADB nhận định đầu năm có mức tăng trưởng tốt, chỉ giảm nhẹ từ 9,1% trong nửa đầu năm 2018 xuống 8,9%. Trong ngành công nghiệp, tốc độ tăng trưởng công nghiệp chế biến chế tạo giảm nhẹ xuống mức 11,2%, nhờ ngành khai khoáng đã đảo chiều từ giảm 1,3% trong nửa đầu năm 2018 lên tăng 1,8% trong cùng kỳ 2019.

Bên cạnh đó, xây dựng duy trì mức tăng trưởng 7,9%. Tương tự, khu vực dịch vụ cũng duy trì mức tăng trưởng 6,7% nhờ nhu cầu trong nước cao bù đắp lại cho sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng du khách quốc tế, từ mức tăng 27,2% trong 6 tháng đầu năm 2018 xuống chỉ còn 7,5% (xem biểu đồ 3.4.40). Dịch vụ tài chính ngân hàng đạt mức tăng trưởng ấn tượng 8,0% trong nửa đầu năm 2019.

Lạm phát bình quân giảm từ 3,3% trong 6 tháng đầu năm 2018 xuống 2,6% trong nửa đầu năm nay, đây là mức lạm phát bình quân 6 tháng thấp nhất trong 3 năm trở lại đây. Giá xăng dầu giảm, tăng trưởng tín dụng và cung tiền chậm lại, và tỷ giá tương đối ổn định đã bù lại phần nào áp lực lạm phát từ việc tăng giá điện và giá lương thực.

Về cán cân đối ngoại, báo cáo của ADB cập nhật tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa giảm từ 17,1% trong 6 tháng đầu năm 2018 xuống 7,2% trong cùng kỳ năm nay. Tăng trưởng nhập khẩu hàng hoá trong cùng kỳ cũng giảm tốc, nhưng chỉ giảm từ 10,7% xuống khoảng 8,9%, làm cho thặng dư cán cân vãng lai thu hẹp một nửa, từ mức tương đương 3,5% GDP một năm trước đây xuống khoảng 1,7%. Trong khi đó, cán cân vốn đạt thặng dư ước tính 7,9% GDP, nhờ dòng vốn FDI và vốn đầu tư gián tiếp ròng đều tăng.

Thặng dư cán cân thanh toán tổng thể tương đương 8,5% GDP, cao hơn một chút so với mức 8,4% của năm trước. Thu ngân sách của chính phủ tăng từ mức tương đương 28,7% GDP trong 6 tháng đầu năm trước lên 30,0% trong cùng kỳ năm 2019, trong khi tỷ lệ chi ngân sách trên GDP giảm từ 28,6% xuống 26,8%. Nhờ đó, ngân sách đạt mức thặng dư tương đương 3,2% GDP trong 6 tháng đầu năm, tăng mạnh từ mức thặng dư khiêm tốn 0,1% trong cùng kỳ năm 2018.

Chính sách tiền tệ và tín dụng tiếp tục xu hướng thận trọng trong nửa đầu năm nay, tốc độ tăng trưởng cung tiền (M2) giảm từ 16,6% một năm trước đây xuống khoảng 10,6%, cùng với tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng giảm từ 15,7% xuống khoảng 14,2%.

6 tháng đầu năm 2019 cũng cho thấy những tiến triển trong cải cách hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu (NPL) được chính thức công bố trên bảng cân đối kế toán của hệ thống ngân hàng giảm từ 2,1% hồi tháng 6/2018 xuống 1,9% vào tháng 6/2019. Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu tổng thể (bao gồm cả nợ xấu do các ngân hàng nắm giữ, nợ xấu hiện nay nằm tại Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) và nợ của các ngân hàng được coi là có nguy cơ cao trở thành nợ xấu) giảm từ 6,9% vào giữa năm 2018 xuống 5,9%.

5 lĩnh vực cần tập trung

Để duy trì mức độ tăng trưởng theo dự báo, ông Eric Sidgwick cũng khuyến nghị 5 lĩnh vực Chính phủ cần tập trung đó là: cải thiện cơ sở hạ tầng quốc gia không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng, cả về cơ sở hạ tầng cứng và cơ sở hạ tầng mềm; nâng cao kỹ thuật nguồn lực lao động và giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo nguồn lực phải đáp ứng được nhu cầu của xã hội, thị trường, phải biết cách giải quyết vấn đề; thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển bằng cách phải có những chính sách, thể chế tốt hơn; phải thúc đẩy tư nhân tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu và Việt Nam phải có những biện pháp đối mặt với biến đổi khí hậu.

Tú Anh

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 81,000
AVPL/SJC HCM 79,000 81,000
AVPL/SJC ĐN 79,000 81,000
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 69,450
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 69,350
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 81,000
Cập nhật: 29/03/2024 06:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 69.800
TPHCM - SJC 79.100 81.100
Hà Nội - PNJ 68.500 69.800
Hà Nội - SJC 79.100 81.100
Đà Nẵng - PNJ 68.500 69.800
Đà Nẵng - SJC 79.100 81.100
Miền Tây - PNJ 68.500 69.800
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 69.800
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 69.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 52.050
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 40.630
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 28.940
Cập nhật: 29/03/2024 06:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 6,990
Trang sức 99.9 6,825 6,980
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 7,020
NL 99.99 6,830
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830
Miếng SJC Thái Bình 7,930 8,115
Miếng SJC Nghệ An 7,930 8,115
Miếng SJC Hà Nội 7,930 8,115
Cập nhật: 29/03/2024 06:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 69,750
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 69,850
Nữ Trang 99.99% 68,400 69,250
Nữ Trang 99% 67,064 68,564
Nữ Trang 68% 45,245 47,245
Nữ Trang 41.7% 27,030 29,030
Cập nhật: 29/03/2024 06:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 29/03/2024 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,845 15,865 16,465
CAD 18,011 18,021 18,721
CHF 26,994 27,014 27,964
CNY - 3,362 3,502
DKK - 3,498 3,668
EUR #25,905 26,115 27,405
GBP 30,753 30,763 31,933
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.61 159.76 169.31
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,206 2,326
NZD 14,560 14,570 15,150
SEK - 2,241 2,376
SGD 17,816 17,826 18,626
THB 626.78 666.78 694.78
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 29/03/2024 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 29/03/2024 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 06:00