Trung Quốc gặp khủng hoảng thiếu điện: Ngành nào của Việt Nam hưởng lợi?

17:41 | 19/10/2021

4,106 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việc thiếu điện sản xuất và phải thực thi các biện pháp hạn chế phát thải đã khiến sản lượng thép và xi măng Trung Quốc giảm mạnh.

Thiếu điện tại Trung Quốc dự kiến kéo dài tối thiểu đến hết quý IV

Ngành sản xuất Trung Quốc phục hồi quá nhanh sau đại dịch đã gây áp lực lên hệ thống điện quốc gia .

Trong báo cáo phân tích vừa công bố, Công ty chứng khoán VNDirect cho biết, sản xuất công nghiệp Trung Quốc đã thể hiện sự phục hồi mạnh mẽ trong 6 tháng đầu năm, khi tăng trưởng 10,2% so với cùng kỳ. Mặc dù tốc độ hồi phục có vẻ như đã chậm lại trong quý III (do một số biện pháp ngăn chặn Covid-19 được áp dụng lại tại một số địa phương) nhưng mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp 6,4-5,3% so cùng kỳ lần lượt trong tháng 7 và tháng 8 vẫn khá ấn tượng.

Việc các ngành sản xuất phục hồi nhanh chóng sau đại dịch đã gây áp lực không nhỏ lên nhu cầu sử dụng điện của quốc gia này. Theo Tân Hoa Xã, tiêu thụ điện tại Trung Quốc trong 8 tháng đầu năm nay đã tăng 13,8% so cùng kỳ, tuy nhiên tổng sản lượng điện sản xuất quốc gia chỉ đạt mức tăng 10,1%. Kết quả là hệ thống sản xuất điện của Trung Quốc đang không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng.

Trung Quốc gặp khủng hoảng thiếu điện: Ngành nào của Việt Nam hưởng lợi? - 1
Nhiệt điện chiếm khoảng 65-75% tổng sản lượng điện Trung Quốc (Ảnh: Caixin).

Nguyên nhân khiến tăng trưởng sản lượng điện tại Trung Quốc không đạt kỳ vọng một phần đến từ việc các nhà máy nhiệt điện giảm sản lượng để tránh thua lỗ.

Giá nhiên liệu than và khí đốt cao đẩy chi phí sản xuất của các nhà máy nhiệt điện tăng. Trong khi đó, giá thu mua điện lại không được vượt quá giá điện tiêu chuẩn - vốn được tính toán trong thời kỳ giá nhiên liệu thấp hơn nhiều. Kết quả là biên lợi nhuận sụt giảm mạnh, thậm chí lỗ đã khiến hàng loạt nhà máy nhiệt điện phải cắt giảm công suất.

Theo Reuters, nhiệt điện chiếm khoảng 65-75% tổng sản lượng điện Trung Quốc trong giai đoạn 2019 đến tháng 8/2021. Do đó, hiệu suất vận hành thấp của các nhà máy nhiệt điện có thể sẽ khiến tổng sản lượng điện tại quốc gia này suy giảm đáng kể.

Bên cạnh đó, năng lượng điện tái tạo lại bất ổn. Lượng nước trong hồ thấp khiến nhóm thủy điện Tam Hiệp không thể phát điện tối đa công suất như mùa mưa lũ năm 2020. Trong khi đó, thời tiết không thuận lợi đã khiến sản lượng điện gió và điện mặt trời sụt giảm mạnh trong tháng 9.

Tiêu biểu như tại tỉnh Liêu Ninh, sản lượng điện gió tháng 9 đột ngột giảm xuống chỉ còn 70.000 kWh so với sản lượng ước tính khi lắp đặt là 10 triệu kWh (theo số liệu từ Công ty TNHH Cung cấp Lưới điện Liêu Ninh). Việc thiếu phương án lưu trữ điện và phụ thuộc nhiều vào thời tiết khiến sản lượng điện tái tạo tại Trung Quốc không ổn định.

Một lý do nữa đó là Trung Quốc tỏ ra quyết liệt trong việc thực hiện "mục tiêu sử dụng năng lượng. Mục tiêu hạn chế lượng phát thải đã buộc các nhà máy nhiệt điện hóa thạch tại các khu vực bị cảnh báo phải cắt giảm công suất.

Nhiều thủ phủ sản xuất công nghiệp lớn của Trung Quốc buộc phải cắt điện

Khủng hoảng thiếu điện ở Trung Quốc đã ảnh hưởng rất lớn đến nhóm các ngành thâm dụng điện, bao gồm thép và xi măng. Nhiều nhà sản xuất đã nhận được yêu cầu cắt giảm công suất để tiết kiệm năng lượng, nhất là trong bối cảnh lo ngại không đủ điện để giữ ấm khi mùa đông đang đến gần. Đáng chú ý, phần lớn sản lượng thép và xi măng của Trung Quốc tập trung ở các khu vực thiếu điện sản xuất như Hà Bắc, Sơn Đông, Liêu Ninh...

Từ ngày 10/9 đến 22/9, tỉnh Liêu Ninh đã phải cắt điện tới 9 lần do sản lượng điện thiếu hụt 5-10% công suất. Ngày 23/9, 3 tỉnh vùng Đông Bắc là Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang đã buộc phải cắt điện khẩn cấp từ 16h30 đến 21h30.

Từ đầu tháng 9, thành phố Đông Quan (Quảng Đông) yêu cầu cắt điện tới 4 ngày/tuần đối với doanh nghiệp bình thường và 5 ngày/tuần đối với doanh nghiệp thuộc ngành thâm dụng năng lượng.

Thiếu hụt nguồn cung thép - xi măng tạm thời, bất chấp ngành xây dựng chậm lại

Chính phủ Trung Quốc đang cho thấy xu hướng giảm bớt các biện pháp kích thích tài khóa và tiền tệ - vốn được áp dụng trong suốt 18 tháng qua. Chỉ số tăng trưởng tổng mức đầu tư cơ sở hạ tầng đang tiến sát về mức 0% trong tháng 8. Trong khi đó, một thước đo rộng rãi về tín dụng tại Trung Quốc là tăng trưởng dư nợ vay tín dụng tư nhân đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2/2020.

Trung Quốc gần đây cũng đang thực thi nhiều biện pháp nhằm hạ nhiệt thị trường bất động sản (BĐS). Trong một chính sách được ban hành vào tháng 9/2020 có tên là "Ba lằn ranh đỏ" đã yêu cầu các tiêu chuẩn cho vay khắt khe hơn đối với các nhà phát triển BĐS lớn và hạn chế cho vay cá nhân mua nhà. Kết quả là giá trị ký bán các sản phẩm BĐS ở nước này giảm mạnh trong tháng 9 và tốc độ tăng giá BĐS mới trong tháng 8 ghi nhận mức tăng chậm nhất 5 tháng.

Nguy cơ vỡ nợ của Evergrande - tập đoàn BĐS lớn thứ 2 tại Trung Quốc càng làm trầm trọng thêm triển vọng của thị trường BĐS Trung Quốc quý IV và năm 2022. Thị trường BĐS chậm lại sẽ làm giảm đáng kể nhu cầu của các sản phẩm vật liệu xây dựng (VLXD) như thép và xi măng.

Về mặt nguồn cung, việc thiếu điện sản xuất và phải thực thi các biện pháp hạn chế phát thải đã khiến sản lượng thép và xi măng Trung Quốc giảm mạnh trong tháng 7-8.

Sản lượng sản xuất thép thô của Trung Quốc tháng 8 chỉ đạt 83 triệu tấn (giảm 12,2% so với cùng kỳ), giảm tháng thứ 4 liên tiếp và là mức thấp nhất kể từ tháng 3/2020 (thời điểm dịch bệnh Covid-19 bùng phát mạnh mẽ). Trong khi đó, sản lượng sản xuất xi măng cũng đã giảm từ mức 243 triệu tấn trong tháng 5 xuống chỉ còn 206 triệu tấn vào tháng 7, trước khi tăng nhẹ lên 215 triệu tấn vào tháng 8.

Do hạn chế trong việc tiếp cận số liệu, việc lượng hóa tác động 2 chiều của cung cầu đến sản lượng và giá vật liệu xây dựng (VLXD) Trung Quốc là tương đối khó khăn. Tuy nhiên, mức tồn kho thép và xi măng tại Trung Quốc đều đang ở mức thấp nhất kể từ đầu năm và giá bán các mặt hàng này có dấu hiệu tăng đáng kể từ tháng 8.

Do đó, nhóm chuyên gia công ty chứng khoán trên cho rằng, Trung Quốc đang gặp tình trạng thiếu hụt nguồn cung VLXD tạm thời và xu hướng này sẽ tối thiểu tiếp tục trong quý IV khi sản lượng điện dùng cho sản xuất tại quốc gia này chưa có dấu hiệu hồi phục.

Ai sẽ thắng trong cuộc khủng hoảng thiếu điện tại Trung Quốc?

Theo cập nhật, xuất khẩu thép - xi măng Việt Nam sang Trung Quốc tăng mạnh trong tháng 8 và tháng 9.

Sản lượng và giá bán thép - xi măng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng mạnh trong tháng 8, tháng 9 so với giai đoạn tháng 5 - tháng 7 trước đó, cùng lúc thời điểm các nhà máy sản xuất VLXD tại Trung Quốc bị yêu cầu cắt giảm công suất do thiếu điện.

Trung Quốc gặp khủng hoảng thiếu điện: Ngành nào của Việt Nam hưởng lợi? - 2

Do đó, VNDirect tin rằng, các nhà xuất khẩu VLXD Việt Nam đang được hưởng lợi khi quốc gia láng giềng thiếu hụt nguồn cung tạm thời.

Trong số các doanh nghiệp niêm yết, những đơn vị có tỷ trọng xuất khẩu thép xây dựng và xi măng sang thị trường Trung Quốc lớn sẽ được hưởng lợi từ chủ đề này. Trong đó, Hòa Phát (HPG) và Xi măng Bỉm Sơn (BCC) là hai doanh nghiệp niêm yết tiêu biểu. Trong khi đó, các doanh nghiệp tôn mạ sẽ được hưởng lợi gián tiếp khi áp lực cạnh tranh từ tôn mạ Trung Quốc tại các thị trường xuất khẩu khác giảm.

Nhà đầu tư cũng được lưu ý, trạng thái cân bằng cung - cầu các sản phẩm thép - xi măng có thể sẽ sớm được thiết lập trong năm 2022 khi giới chức Trung Quốc đang đề xuất nhiều giải pháp để giải quyết vấn đề thiếu hụt điện hiện nay như tăng sản lượng khai thác than nội địa; tăng giá thu mua điện, hỗ trợ các nhà máy nhiệt điện hoạt động trở lại... Do đó, tiềm năng xuất khẩu VLXD mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ là ngắn hạn.

Về khả năng thiếu hụt điện sản xuất tại Việt Nam do giá than tăng cao, VNDirect đánh giá rủi ro này ở mức thấp nhờ thủy điện chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng công suất phát điện của Việt Nam năm 2020, khoảng 30% và hiện tượng La Nina (mưa nhiều) được kỳ vọng sẽ tiếp tục cho đến hết quý I/2022, đảm bảo lượng nước cho các nhà máy thủy điện.

Theo Dân trí

BP và Equinor lựa chọn turbine điện gió mạnh nhất thế giới cho dự án tại Hoa KỳBP và Equinor lựa chọn turbine điện gió mạnh nhất thế giới cho dự án tại Hoa Kỳ
Khủng hoảng năng lượng: Trung Quốc đã đạt kỷ lục sản lượng than hàng ngàyKhủng hoảng năng lượng: Trung Quốc đã đạt kỷ lục sản lượng than hàng ngày
Mitsubishi chi 17,5 tỷ USD để thúc đẩy quá trình giảm phát thải carbonMitsubishi chi 17,5 tỷ USD để thúc đẩy quá trình giảm phát thải carbon
Chuỗi cung ứng đứt gãy, tăng trưởng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng ra sao?Chuỗi cung ứng đứt gãy, tăng trưởng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng ra sao?
Toàn cảnh cuộc đấu khẩu về cuộc khủng hoảng năng lượng giữa Nga và phương TâyToàn cảnh cuộc đấu khẩu về cuộc khủng hoảng năng lượng giữa Nga và phương Tây

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 05:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 05:45