Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (22/11 - 28/11)

07:10 | 29/11/2021

4,115 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Lợi nhuận ròng của Lukoil tăng 4 lần trong quý III?2021; Gazprom phê duyệt chương trình đầu tư mới; Petrobras công bố kế hoạch đầu tư và chia cổ tức mới; Moldova thông báo đã trả hết tiền nợ khí đốt cho Gazprom; Eni sẽ bán cho Snam 49,9% cổ phần của mình trong các đường ống dẫn khí đốt chiến lược ở Algeria… là những tin tức nổi bật của các tập đoàn năng lượng quốc tế tuần qua.
Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (22/11 - 28/11)

Eni sẽ bán cho Snam 49,9% cổ phần của mình trong các đường ống dẫn khí đốt chiến lược ở Algeria với số tiền 385 triệu euro, hai tập đoàn năng lượng thông báo hôm thứ Bảy. Các đường ống dẫn khí đốt từ Algeria đến Ý này sẽ do cả Eni và Snam kiểm soát, hai nhóm cho biết trong một tuyên bố chung. Tập đoàn dầu khí của Ý đang tiến hành chia tách các hoạt động của mình thành các liên doanh mới để giảm nợ và tài trợ cho quá trình chuyển đổi sang năng lượng carbon thấp.

Trong một tuyên bố được công bố trên trang web của mình, công ty Moldovagaz cho biết họ đã "chuyển khoản thanh toán cho Gazprom đối với lượng khí đốt tự nhiên được tiêu thụ trong tháng 10 và nửa đầu tháng 11 năm nay". Khoản nợ của Moldova, một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và là một trong những nước nghèo nhất ở châu Âu, xuất hiện vào tháng 10 do Nga tăng giá bán khí đốt. Gazprom đã đe dọa Moldova cắt nguồn cung khí đốt vì thiếu tiền thanh toán. Hôm thứ Năm, Quốc hội Moldova đã gấp rút sửa đổi luật ngân sách để trả khoản nợ này.

Công ty dầu khí nhà nước Brazil Petrobras đã nới lỏng chính sách cổ tức và tăng dự báo chi tiêu vốn trong kế hoạch chiến lược 5 năm mới được công bố vào cuối ngày thứ Tư, được các nhà phân tích và nhà đầu tư hoan nghênh. Trong một hồ sơ chứng khoán, Petroleo Brasileiro SA, tên chính thức của công ty Petrobras, cho biết họ đã chấm dứt chính sách cổ tức trước đây, vốn cấm thanh toán cổ tức bất thường trong nhiều năm, chính sách này giờ đã khiến công ty nợ 60 tỷ USD. Trong tương lai, Petrobras cho biết họ sẽ áp dụng "sự linh hoạt xung quanh khoản nợ này" liên quan đến chính sách cổ tức của mình. Theo kế hoạch mới của công ty, miễn là tổng nợ duy trì dưới 65 tỷ USD và công ty kiếm được lợi nhuận, thì công ty sẽ trả 60% chênh lệch giữa dòng tiền hoạt động và các khoản đầu tư của mình mỗi quý. Công ty cũng đặt ra mức chi trả cổ tức hàng năm tối thiểu là 4 tỷ USD trong những năm mà giá dầu Brent trung bình trên 40 USD/thùng, bất kể mức nợ là bao nhiêu. Trong giai đoạn 5 năm theo kế hoạch (2022-2026), Petrobras cho biết họ dự kiến ​​sẽ phân phối tổng cộng 60-70 tỷ USD cổ tức.

Tập đoàn khí đốt khổng lồ của Nga Gazprom hôm thứ Năm cho biết ban lãnh đạo của họ đã phê duyệt các khoản đầu tư trị giá 1,76 nghìn tỷ rúp (24 tỷ USD) cho năm 2022, so với kế hoạch ban đầu là 902 tỷ rúp cho năm 2021, để tài trợ cho các trung tâm khai thác và lọc dầu mới. Gazprom đang phát triển các mỏ khai thác khí đốt mới, đặc biệt là ở Bán đảo Bắc Cực của Yamal, nơi mà theo chính phủ Nga, nắm giữ hơn 1/5 trữ lượng khí đốt của thế giới.

Công ty cho biết các dự án tài trợ ưu tiên khác là đường ống dẫn khí đốt Power of Siberia đến Trung Quốc, cũng như các nhà máy xử lý khí đốt và bảo trì mạng lưới đường ống dẫn khí đốt hiện có. Gazprom cho biết chi tiêu vốn dự kiến ​​sẽ tăng lên 1,4 nghìn tỷ rúp trong năm tới, với các quỹ bổ sung được phân bổ cho các khoản đầu tư tài chính dài hạn và mua tài sản dài hạn. Khoản vay bên ngoài công ty được ấn định là 272,79 tỷ rúp cho năm 2022.

Công ty dầu khí số hai của Nga Lukoil hôm thứ Tư đã công bố lợi nhuận gần như tăng gấp 4 lần trong quý thứ ba so với cùng ký năm ngoái, được hỗ trợ bởi giá nhiên liệu tăng, nhưng vẫn chưa hết bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng dầu mỏ và y tế vào năm 2020. Từ tháng 7 đến tháng 9/2021, tập đoàn tư nhân này đã ghi nhận lợi nhuận ròng 192,5 tỷ rúp (2,3 tỷ euro theo tỷ giá hiện tại), so với 50,4 tỷ rúp cùng kỳ năm ngoái, thời điểm công ty vừa hồi phục chút ít sau đại dịch Covid-19 và cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Trong quý III/2021, doanh số bán hàng của Lukoil lên tới 2,589 tỷ rúp (30,8 tỷ euro), so với 1,457 tỷ rúp một năm trước đó.

Hôm 23/11, Shell đã công bố việc xây dựng một đơn vị thu hồi dầu nhiệt phân ở Singapore, một công nghệ biến chất thải nhựa thành nguyên liệu hóa học. Đơn vị này dự kiến ​​bắt đầu sản xuất vào năm 2023, sẽ được lắp đặt trong nhà máy lọc dầu Pulau Bukom. Với công suất hàng năm 50.000 tấn, tương đương 7,8 tỷ túi nhựa được xử lý, đây sẽ là công suất lớn nhất ở châu Á. Cơ sở này sẽ tái chế nhựa khó xử lý - vốn được dùng để chôn lấp - để thu được chất lỏng sử dụng làm nguyên liệu hóa học, ví dụ như trong sản xuất lốp xe hoặc nệm.

Cũng trong tuần qua, Shell đã ký một thỏa thuận mua điện từ dự án được mệnh danh là “trang trại gió ngoài khơi lớn nhất thế giới” - Trang trại gió Dogger Bank. Thỏa thuận mua bán điện (PPA) trong 15 năm liên quan đến dự án Dogger Bank C công suất 240 megawatt, giai đoạn thứ 3 và là giai đoạn cuối cùng của Trang trại gió ngoài khơi Dogger Bank công suất 3,6 gigawatt ở vùng biển ngoài khơi bờ biển phía đông bắc nước Anh. Thỏa thuận này là sự tiếp nối của thỏa thuận trước của Shell mua 480 MW từ Dogger Bank A và B, với tổng bao tiêu của Shell sẽ lên tới 720 MW. Khi ba giai đoạn hoàn thành, dự kiến ​​tháng 3/2026, Dogger Bank sẽ là trang trại gió ngoài khơi lớn nhất trên thế giới.

Công ty Dầu mỏ Quốc gia Abu Dhabi (ADNOC) ký một thỏa thuận với Công ty Năng lượng Quốc gia Abu Dhabi (TAQA) để tạo ra một nhà máy điện hydro tái tạo ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE). ADNOC và TAQA đang chuẩn bị một nhà máy mới ở UAE, sản xuất 30 GW vào năm 2030. Dự án này củng cố vị thế của UAE với tư cách là nước đi đầu trong quá trình chuyển đổi năng lượng. Sự hợp tác này kết hợp năng lực mạnh mẽ của ADNOC với chuyên môn của TAQA trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Đó là một phần trong tham vọng phát triển những nguồn năng lượng này của Abu Dhabi. TAQA do chính phủ liên bang sở hữu 75%.

Woodside Petroleum và Tập đoàn BHP đã chốt phương án cuối cùng chi 12 tỷ USD để phát triển mỏ khí đốt Scarborough ngoài khơi Tây Úc và mở rộng nhà máy khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) Pluto. Sự chấp thuận được đưa ra ngày 22/11 khi Woodside và BHP ký thỏa thuận hợp nhất chi nhánh dầu mỏ của BHP với Woodside để tạo ra một nhà sản xuất dầu khí độc lập trong top 10 thế giới, như đã thông báo vào tháng Tám.

Dự án Scarborough và Pluto có ý nghĩa quan trọng đối với tương lai của Woodside, công ty dầu khí độc lập lớn nhất Australia, vốn đã có mức tăng trưởng hạn chế trong những năm gần đây. Quyết định đầu tư cuối cùng cho dự án đã bị hoãn lại hồi tháng 3 năm ngoái khi giá dầu và khí đốt sụt giảm trong bối cảnh đại dịch Covid-19.

Vào ngày 22/11, công ty dầu khí Zenith Energy thông báo đã mua lại 100% vốn cổ phần đã phát hành, phân bổ, còn nợ và đã thanh toán của Canada North Africa Oil & Gas (CNAOG), một công ty con của CNPC International (Trung Quốc). CNAOG nắm giữ 22,5% cổ phần trong giấy phép Kairouan North và nhượng quyền Sidi El Kilani (SLK) ở Tunisia cũng như 25% vốn của Compagnie Tuniso-Koweito-Chinoise de Pétrole (CTKCP). Việc mua lại CNAOG đã được hoàn tất với số tiền là 1,66 triệu USD. Số tiền này cũng bao gồm khoảng 30.000 thùng dầu thô khai thác trong nhượng quyền SLK, do CNAOG lưu trữ, nhưng chưa bán được.

Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (15/11-21/11)Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (15/11-21/11)
Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (8/11 - 14/11)Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (8/11 - 14/11)
Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (1-7/11)Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (1-7/11)

Nh.Thạch

AFP

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 69,450 ▲600K 69,900 ▲450K
Nguyên liệu 999 - HN 68,350 ▼400K 69,800 ▲450K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 12:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 12:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,915 ▲80K 7,070 ▲80K
Trang sức 99.9 6,905 ▲80K 7,060 ▲80K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,980 ▲80K 7,100 ▲80K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,980 ▲80K 7,100 ▲80K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,980 ▲80K 7,100 ▲80K
NL 99.99 6,910 ▲80K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,910 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 12:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,250 ▲750K 70,500 ▲750K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,250 ▲750K 70,600 ▲750K
Nữ Trang 99.99% 69,150 ▲750K 70,000 ▲750K
Nữ Trang 99% 67,807 ▲743K 69,307 ▲743K
Nữ Trang 68% 45,755 ▲510K 47,755 ▲510K
Nữ Trang 41.7% 27,343 ▲313K 29,343 ▲313K
Cập nhật: 29/03/2024 12:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,744.51 15,903.54 16,414.36
CAD 17,859.08 18,039.48 18,618.89
CHF 26,797.53 27,068.21 27,937.63
CNY 3,362.04 3,396.00 3,505.60
DKK - 3,518.32 3,653.18
EUR 26,047.45 26,310.56 27,476.69
GBP 30,507.55 30,815.71 31,805.49
HKD 3,090.38 3,121.59 3,221.86
INR - 296.93 308.81
JPY 159.05 160.66 168.34
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,430.82 83,649.45
MYR - 5,194.61 5,308.11
NOK - 2,235.93 2,330.95
RUB - 255.73 283.10
SAR - 6,596.77 6,860.75
SEK - 2,269.46 2,365.91
SGD 17,917.31 18,098.29 18,679.60
THB 600.95 667.72 693.31
USD 24,610.00 24,640.00 24,980.00
Cập nhật: 29/03/2024 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,906 16,006 16,456
CAD 18,059 18,159 18,709
CHF 27,048 27,153 27,953
CNY - 3,393 3,503
DKK - 3,535 3,665
EUR #26,275 26,310 27,570
GBP 30,931 30,981 31,941
HKD 3,096 3,111 3,246
JPY 160.66 160.66 168.61
KRW 16.64 17.44 20.24
LAK - 0.88 1.24
NOK - 2,242 2,322
NZD 14,568 14,618 15,135
SEK - 2,266 2,376
SGD 17,940 18,040 18,640
THB 627.28 671.62 695.28
USD #24,568 24,648 24,988
Cập nhật: 29/03/2024 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24610 24660 25000
AUD 15946 15996 16411
CAD 18121 18171 18576
CHF 27290 27340 27752
CNY 0 3397.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26478 26528 27038
GBP 31115 31165 31625
HKD 0 3115 0
JPY 161.97 162.47 167
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14617 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18225 18225 18586
THB 0 639.6 0
TWD 0 777 0
XAU 7900000 7900000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 12:45