Sản xuất trên thế giới phục hồi, Việt Nam được trân trọng "điểm danh"

06:45 | 05/10/2020

161 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Hoạt động sản xuất tại Mỹ, Trung Quốc và nhiều nền kinh tế Á, Âu đang dần cải thiện. Đặc biệt, Việt Nam cũng được tờ Wall Street Journal nhắc tên nhờ số lượng đơn hàng xuất khẩu tăng mạnh.
Sản xuất trên thế giới phục hồi, Việt Nam được trân trọng điểm danh - 1
Đại dịch Covid-19 đã khiến nhiều nền kinh tế lớn của thế giới rơi vào suy thoái. Ảnh: SCMP

Sau cuộc suy thoái mạnh mẽ vào mùa xuân năm nay khi các nhà máy đóng cửa để ngăn chặn sự lây lan của Covid-19, hoạt động sản xuất tại Mỹ đã dần trở về “guồng quay”. Các khảo sát mới công bố cho biết nhu cầu trong và ngoài nước cải thiện, đã thúc đẩy lượng đơn hàng mới.

Viện Quản lý Cung ứng (ISM) cho biết, chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) của hoạt động sản xuất đạt 55,4 trong tháng 9, đánh dấu mốc tăng tháng thứ 4 liên tiếp. Chỉ số trên 50 cho thấy, hoạt động sản xuất đang cải thiện.

Tuy vậy, chỉ số phụ về việc làm ghi nhận ở mức 49,6, nghĩa là tiếp tục suy giảm trong tháng 9, dù với tốc độ chậm hơn so với những tháng trước.

Tuy nhiên, Timothy Fiore, người điều hành khảo sát của ISM, cho rằng dù việc làm còn yếu nhưng đã khá hơn vài tháng trước. “Nhìn chung, mọi thứ đều có vẻ ổn”.

Còn theo khảo sát của IHS Markit, PMI đã tăng nhẹ lên 53,2 trong tháng 9, từ mức 53,1 trong tháng 8.

Chris Williamson, Nhà kinh tế trưởng của IHS Markit, cho biết các công ty đang tăng chi tiêu đầu tư trở lại sau khi kế hoạch mở rộng sản xuất bị trì hoãn trong mùa xuân. “Tương tự, các đơn đặt hàng nhiều hơn đã giúp thúc đẩy việc tạo thêm việc làm khi các công ty tiếp tục mở rộng công suất”, ông nói.

Ông Timothy Fiore chỉ ra một số khó khăn có thể làm chậm tốc độ phục hồi sản xuất. Thứ nhất, sự gia tăng các ca nhiễm Covid-19 vào mùa thu này có thể khiến nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa và công nhân ở nhà. Thứ hai, việc dạy trực tuyến có thể khiến nhiều phụ huynh làm việc từ xa ở nhà. Cuối cùng, sự bất ổn xung quanh cuộc bầu cử tổng thống có thể khiến các công ty hoãn đầu tư.

Bức tranh tương tự ở châu Âu và châu Á, nơi các nhà sản xuất tiếp tục cắt giảm việc làm mặc dù đã phục hồi phần lớn hoạt động. Thất nghiệp ở khu vực đồng tiền chung châu Âu tăng lên trong tháng 8, dù các chính phủ đã mạnh tay trợ cấp nhằm cứu việc làm và các doanh nghiệp.

IHS Markit cho biết, PMI sản xuất khu vực đồng Euro đã tăng lên 53,7 trong tháng 9 từ mức 51,7 trong tháng 8. Phần lớn tăng trưởng đó tập trung ở Đức, nơi các doanh nghiệp báo cáo doanh số xuất khẩu tăng mạnh. Đức nổi bật trong số các quốc gia giàu có nhờ sức mạnh phục hồi, hưởng lợi từ nhu cầu hồi sinh của Trung Quốc đối với máy công cụ và các hàng hóa khác.

Kinh tế Trung Quốc tăng mạnh hơn trong tháng 9 khi nhu cầu toàn cầu phục hồi và các biện pháp hỗ trợ của chính phủ có kết quả. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) sản xuất của Trung Quốc đã tăng lên 51,5 điểm vào tháng 9, theo dữ liệu do Cục Thống kê Quốc gia công bố hôm thứ tư (30/9). Con số này cao hơn dự báo 51,2 điểm của các nhà kinh tế và 51 điểm của tháng 8.

Giới chức Trung Quốc hy vọng kỳ nghỉ lễ kéo dài 8 ngày, bắt đầu từ thứ năm (1/10), sẽ giúp chi tiêu của người dân cả nước tăng cao hơn nữa, khi các địa phương triển khai những chiến dịch khuyến mại.

“Việc cải thiện nhu cầu bên ngoài đã bổ sung thêm động lực cho sự phục hồi của Trung Quốc, vốn không chỉ dựa vào nhu cầu trong nước”, Serena Zhou, Nhà kinh tế của Mizuho Securities, đánh giá.

Sản xuất trên thế giới phục hồi, Việt Nam được trân trọng điểm danh - 2
Chỉ số PMI ngành sản xuất nhiều quốc gia đã tăng trở lại trong tháng 9. Ảnh: AFP

Cỗ máy xuất khẩu của Trung Quốc đã nhiều lần đánh bại dự báo ảm đạm của các chuyên gia kinh tế trong năm nay. Việc quốc gia này khôi phục lại hoạt động nhà máy tương đối nhanh chóng vào mùa xuân đã giúp họ có thể sản xuất thiết bị y tế và hàng điện tử gia dụng khi phần còn lại của thế giới phải vật lộn với đại dịch.

Bất chấp sự hồi sinh về sản lượng và đơn đặt hàng, các nhà sản xuất trong khu vực đồng Euro vẫn tiếp tục cắt giảm việc làm. Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu cho biết 251.000 người đã mất việc trong tháng 8, đẩy tỷ lệ thất nghiệp từ 8% lên 8,1%.

Các nhà kinh tế dự báo tỷ lệ này sẽ tiếp tục tăng trong những tháng tới khi các kế hoạch cứu trợ dần kém hào phóng hơn và một số doanh nghiệp chuẩn bị cho sự phục hồi chậm lại, vì những đợt bùng phát virus mới tiếp tục làm giảm nhu cầu.

Trên toàn cầu, những gì chúng tôi thấy là xuất khẩu dịch vụ không phục hồi nhanh như xuất khẩu hàng hóa sản xuất. Một số doanh nghiệp sẽ phá sản”, Beata Javorcik, Nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu (EBRD), nói.

Bức tranh kinh tế châu Âu cũng rất ảm đạm khi dịch bệnh diễn biến nghiêm trọng ở tất cả các thành viên chủ chốt của “lục địa già”. Các ngành kinh tế quan trọng của EU từ ngoại thương, du lịch đến vận tải, dịch vụ ăn uống công cộng đều bị thiệt hại nghiêm trọng, trong đó sản xuất ô tô được coi là lĩnh vực đặc biệt dễ bị tổn thương do gián đoạn chuỗi cung ứng.

Thực tế, nền kinh tế của Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã giảm 3,8% trong quý I/2020, khi hoạt động kinh doanh đình trệ do các doanh nghiệp phải đóng cửa nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh. Đây là mức sụt giảm lớn nhất của Eurozone kể từ năm 1995.

Tại Đức, IMF dự báo mức tăng trưởng của nước này sẽ giảm 7,5% trong năm nay. Ngân hàng Trung ương Đức Bundesbank đánh giá, nền kinh tế Đức đã rơi vào suy thoái và khó có thể phục hồi trong ngắn hạn. Sản lượng công nghiệp của Pháp giảm 16,2% trong tháng 3 vừa qua, trong khi GDP của Anh ước giảm hơn 14% trong năm nay.

Các khu vực của châu Á cũng chứng kiến tăng trưởng sản lượng của nhà máy, đáng chú ý nhất là Ấn Độ, nơi chỉ số PMI đã tăng lên 56,8 trong tháng 9, từ mức 52 trong tháng 8, do đơn đặt hàng xuất khẩu tăng. Tuy nhiên, ngay cả như vậy, công ăn việc làm vẫn bị mất.

Hoạt động sản xuất cũng tăng tốc ở Philippines và Việt Nam, nhờ sự gia tăng đơn đặt hàng xuất khẩu. Chỉ số PMI ngành sản xuất của Việt Nam đã tăng trở lại lên trên ngưỡng trung tính 50 điểm trong tháng 9 khi đạt 52,2 điểm so với 45,7 điểm của tháng 8.

Cuối cùng, lĩnh vực sản xuất của Việt Nam trong tháng 9 có mức cải thiện điều kiện hoạt động lần đầu tiên trong ba tháng. Hơn nữa, chỉ số toàn phần (52,2) là cao nhất kể từ tháng 7/2019 cho thấy các điều kiện kinh doanh đã cải thiện nhẹ.

Nhưng đã có sự sụt giảm hoạt động ở Thái Lan, Indonesia và Malaysia, một dấu hiệu cho thấy sự phục hồi kinh tế toàn cầu vẫn còn mong manh và chắp vá. Chỉ số toàn phần của hai nước chỉ đạt mức quanh 50 điểm, với kết quả lần lượt là 49,9 và 50,1 điểm.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 119,000 ▼1000K 121,000 ▼1000K
AVPL/SJC HCM 119,000 ▼1000K 121,000 ▼1000K
AVPL/SJC ĐN 119,000 ▼1000K 121,000 ▼1000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,070 ▼100K 11,350 ▼100K
Nguyên liệu 999 - HN 11,060 ▼100K 11,340 ▼100K
Cập nhật: 12/05/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 ▼500K 116.000 ▼600K
TPHCM - SJC 119.000 ▼1000K 121.000 ▼1000K
Hà Nội - PNJ 113.500 ▼500K 116.000 ▼600K
Hà Nội - SJC 119.000 ▼1000K 121.000 ▼1000K
Đà Nẵng - PNJ 113.500 ▼500K 116.000 ▼600K
Đà Nẵng - SJC 119.000 ▼1000K 121.000 ▼1000K
Miền Tây - PNJ 113.500 ▼500K 116.000 ▼600K
Miền Tây - SJC 119.000 ▼1000K 121.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 ▼500K 116.000 ▼600K
Giá vàng nữ trang - SJC 119.000 ▼1000K 121.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500 ▼500K
Giá vàng nữ trang - SJC 119.000 ▼1000K 121.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 ▼500K 116.000 ▼600K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 ▼500K 116.000 ▼600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.000 ▼1000K 115.500 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.890 ▼990K 115.390 ▼990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.180 ▼990K 114.680 ▼990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.950 ▼990K 114.450 ▼990K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.280 ▼750K 86.780 ▼750K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.220 ▼580K 67.720 ▼580K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.700 ▼410K 48.200 ▼410K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.400 ▼910K 105.900 ▼910K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.110 ▼610K 70.610 ▼610K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.730 ▼650K 75.230 ▼650K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.190 ▼680K 78.690 ▼680K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.960 ▼380K 43.460 ▼380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.770 ▼330K 38.270 ▼330K
Cập nhật: 12/05/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 ▼150K 11,590 ▼150K
Trang sức 99.9 11,130 ▼150K 11,580 ▼150K
NL 99.99 10,950 ▼150K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,950 ▼150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 ▼150K 11,650 ▼150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 ▼150K 11,650 ▼150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 ▼150K 11,650 ▼150K
Miếng SJC Thái Bình 11,900 ▼100K 12,100 ▼100K
Miếng SJC Nghệ An 11,900 ▼100K 12,100 ▼100K
Miếng SJC Hà Nội 11,900 ▼100K 12,100 ▼100K
Cập nhật: 12/05/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16191 16458 17033
CAD 18120 18395 19014
CHF 30498 30874 31514
CNY 0 3358 3600
EUR 28532 28799 29829
GBP 33703 34092 35033
HKD 0 3203 3405
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 15096 15686
SGD 19470 19750 20277
THB 700 763 816
USD (1,2) 25712 0 0
USD (5,10,20) 25751 0 0
USD (50,100) 25779 25813 26153
Cập nhật: 12/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,793 25,793 26,153
USD(1-2-5) 24,761 - -
USD(10-20) 24,761 - -
GBP 34,062 34,155 35,076
HKD 3,275 3,285 3,385
CHF 30,691 30,787 31,648
JPY 174.56 174.87 182.72
THB 749.99 759.25 812.34
AUD 16,474 16,534 16,984
CAD 18,401 18,460 18,962
SGD 19,662 19,723 20,350
SEK - 2,628 2,719
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,845 3,977
NOK - 2,462 2,549
CNY - 3,556 3,653
RUB - - -
NZD 15,076 15,216 15,658
KRW 17.18 17.92 19.24
EUR 28,722 28,745 29,971
TWD 774.28 - 936.79
MYR 5,649.25 - 6,374.25
SAR - 6,808.4 7,166.32
KWD - 82,353 87,564
XAU - - -
Cập nhật: 12/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,588 28,703 29,808
GBP 33,877 34,013 34,984
HKD 3,271 3,284 3,391
CHF 30,563 30,686 31,579
JPY 173.66 174.36 181.48
AUD 16,358 16,424 16,954
SGD 19,658 19,737 20,276
THB 764 767 801
CAD 18,304 18,378 18,890
NZD 15,137 15,645
KRW 17.78 19.61
Cập nhật: 12/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25792 25792 26152
AUD 16332 16432 17000
CAD 18299 18399 18950
CHF 30741 30771 31664
CNY 0 3557.9 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28814 28914 29687
GBP 33991 34041 35159
HKD 0 3355 0
JPY 174.59 175.59 182.1
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15191 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19620 19750 20482
THB 0 731.1 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12100000
XBJ 11800000 11800000 12150000
Cập nhật: 12/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,790 25,840 26,180
USD20 25,790 25,840 26,180
USD1 25,790 25,840 26,180
AUD 16,372 16,522 17,592
EUR 28,866 29,016 30,191
CAD 18,225 18,325 19,648
SGD 19,692 19,842 20,320
JPY 174.99 176.49 181.19
GBP 34,083 34,233 35,453
XAU 11,898,000 0 12,102,000
CNY 0 3,442 0
THB 0 766 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 12/05/2025 15:00